Thời đại hoàng kim của Phật pháp và tạo tượng Phật

Giúp NTDVN sửa lỗi

Không nhìn thấy thành Trường An vào thời nhà Đường thịnh vượng, sẽ không biết đỉnh cao của Trung Hoa thịnh vượng như thế nào; không nhìn thấy nghệ thuật hội họa và điêu khắc vào thời nhà Đường, sẽ không biết tinh hoa của các tác phẩm điêu khắc trong hang Đôn Hoàng. 

Non sông ngàn dặm lớn
Chín tầng cửa Hoàng cung
Không thấy cung hùng vĩ
Sao biết vua chí tôn

Hán Việt:

Sơn hà thiên lý quốc
Thành khuyết cửu trùng môn
Bất đổ hoàng cư tráng
An tri thiên tử tôn

(Trích từ Bài thơ ‘Đế kinh thiên’, tác giả Lạc Tân Vương, thời Sơ Đường)

Nhà Đường là thời đại thịnh vượng và thịnh vượng nhất ở Trung Hoa cổ đại, sau hơn 200 năm ấp ủ và tích lũy, nghệ thuật Phật giáo ở Đôn Hoàng đến thời điểm này cũng tỏa sáng.

Ở phần giữa hang Mạc Cao là hang động tráng lệ nhất ở Đôn Hoàng, có một tòa chín tầng lầu màu đỏ tươi bắt mắt nhất, phía sau tựa vào núi, mái hiên hướng thẳng lên trời, tạo thành một kiến trúc tráng lệ độc nhất vô nhị bên vách núi cheo leo. “Tòa lầu chín tầng” được xây dựng vào thời Trung Hoa Dân Quốc này là một công trình mang tính bước ngoặt của hang Đôn Hoàng, nó được đánh số là hang động thứ 96, vì là nơi lưu giữ bức tượng Phật lớn nhất ở Đôn Hoàng được xây dựng vào đầu nhà Đường nên nó còn được gọi là “hang động với những bức tượng lớn”.

“Hang động với những bức tượng lớn”, ban đầu là một hang động bốn tầng, đã được tăng lên năm tầng trong thời Quân đội Quy Nghĩa và được cải tạo thành chín tầng trong thời Trung Hoa Dân Quốc.

Tượng Phật lớn trong động là tượng Phật Di Lặc, cao hơn 30m, ngồi dựa lưng vào núi, quay mặt về hướng Đông, mắt nhìn xuống, bên tay phải bắt “ấn vô úy” và tay trái bắt “ấn thí nguyện” (còn gọi là Dữ nguyện ấn), hai chân buông thõng tự nhiên và hình dáng tổng thể đầy đặn. Đây là tượng Phật lớn thứ ba ở Trung Quốc, là tượng Phật lớn nhất được tạc trong hang động, cũng là tượng Phật lớn nhất được tạc bằng đá và đất sét trên thế giới.

Điều này không khỏi khiến người ta thán phục, tinh thần tiên phong, dũng cảm của người nhà Đường để đạt được kỹ năng phi thường này; khí thế hùng vĩ, tráng lệ của nhà Đường đã tạo nên kỳ tích chưa từng có. Và vẻ đẹp tráng lệ của Hang 96 trong hang Mạc Cao thể hiện sự tinh tế trong nghệ thuật tạo tượng thời Đường thịnh trị.

Phật gia hưng truyền

Thế giới Phật quốc rộng lớn không thể tách rời khỏi sự hồng truyền của Phật Pháp, đằng sau những bức tượng tuyệt vời là thời kỳ hoàng kim thịnh vượng nhất của Phật giáo, điều này có được là nhờ vào sự thịnh vượng của nhà Đường thời điểm ấy. Mặc dù sau chiến tranh vào cuối triều đại nhà Tùy, Phật giáo đã từng xuất hiện trong cảnh tượng suy tàn, các chùa chiền biến mất và những nhà sư lưu vong khắp nơi. Tuy nhiên các hoàng đế của nhà Đường là người tin vào Thần Phật, đã hết lòng ủng hộ và chấn hưng Phật giáo từ buổi đầu lập quốc.

Mạc cao đôn hoàng
Đây là một góc của bức bích họa triều đại nhà Đường trong Hang 103 ở hang Mạc Cao, Đôn Hoàng, miêu tả cảnh thầy trò Đường Tăng trên đường trở về Trường An sau khi lấy Kinh từ Thiên Trúc. (Phạm vi công cộng)

Khi Hoàng đế Đường Cao Tổ lên ngôi, ông đã hạ chiếu chỉ lập chùa tạo tượng, lập trai đàn cầu siêu cho những người chết trong chiến loạn, ví như như hoàng đế đã cho xây dựng các ngôi chùa Phật giáo ở Trường An, Thái Nguyên, Hoa Nghiêm và nhiều thành phố lớn khác, cũng xây dựng những ngôi chùa cho các cao tăng có tấm lòng từ bi và thần thông quảng đại. Ông cũng đặc biệt lập ra “Thập đại đức” để giám sát các tăng ni trong chùa Từ Bi ở kinh thành, quản lý các công việc Phật sự.

Triều đại của Hoàng đế Đường Thái Tông có mối quan hệ sâu sắc hơn với Phật giáo và các nhà sư lỗi lạc. Trong những năm đầu khi Hoàng đế Thái Tông của nhà Đường hạ bệ Vương Thế Sung, 13 nhà sư có võ công cao cường ở Thiếu Lâm Tự đã hỗ trợ quân nhà Đường khôi phục kinh thành, và bắt giữ cháu trai của Vương Thế Sung là Vương Nhân Tắc, lập công lớn trong việc bảo vệ đất nước. Đường Thái Tông luận công ban thưởng, viết thư khen ngợi, ban thưởng tài chính, cấp đất, thiết lập doanh trại và ban tặng vinh dự tối cao. Thiếu Lâm Tự cũng từ đó mà hưng thịnh.

Trong năm đầu tiên sau khi lên ngôi, Hoàng đế Đường Thái Tông đã triệu tập các cao tăng từ kinh thành vào cung để làm Pháp sự, cầu nguyện cho đất nước, siêu độ cho những tướng sĩ chết trận và những người dân vô tội. Các năm sau đó, ông liên tục ban hành chiếu chỉ, không chỉ xây dựng những ngôi chùa Phật giáo ở những nơi từng xảy ra chiến tranh, mà còn chuyển đổi dinh thự cũ ở Thái Nguyên thành đền chùa để bày tỏ tình yêu thương, lòng trắc ẩn với muôn dân và sự tôn kính đối với các vị Thần Phật.

Hoàng đế Đường Thái Tông ủng hộ Phật gia và chính giáo, đồng thời nghiêm cấm mọi hành vi loạn Pháp, tuyệt không khoan thứ cho những nhà sư giả và những nhà sư xấu xa không có đức hạnh. Ông mong rằng những người tu hành trong thiên hạ, không phân biệt tuổi tác, phải thành tâm và có đạo đức để đảm bảo sự thanh tịnh nơi Phật môn cùng sự thuần chính của Phật Pháp.

Với sự phục hưng của Phật giáo, Hoàng đế Đường Thái Tông đã thực hiện nhiều biện pháp để hoằng dương Phật Pháp với tư cách là hoàng đế của Đại Đường. Ví dụ, để khôi phục lĩnh vực dịch thuật của triều đại nhà Tùy tại chùa Đại Hưng Thiện, ông đã mời các cao tăng Ấn Độ và các sa môn ở Hán địa đến tham gia phiên dịch; khai thị xá lợi Phật cho hàng nghìn người chiêm ngưỡng cùng một lúc, và lưu lại thần tích người mù được sáng mắt trở lại; chiếu mời Đỗ Thuận, tổ đầu tiên của Hoa Nghiêm tông vào cung, đích thân Đường Thái Tông xuống điện nghênh đón, và ban cho danh hiệu “đế tâm”, lễ kính như một vị Phật; Công chúa Văn Thành được gả cho vua Songtsen Gampo ở Tây Tạng, bà mang theo một lượng lớn kinh Phật và tượng Phật, giúp Phật pháp truyền bá đến Tây Tạng.

Vua Songtsen Gampo (giữa), Bhrikuti Devi (trái) và Công chúa Văn Thành (phải). (Ảnh: Wikimedia)

Điều có ảnh hưởng lớn nhất trong thời kỳ này là những kỳ tích trong hành trình Pháp sư Huyền Trang đi Tây phương thỉnh kinh.

Đây là hình ảnh của Pháp sư Huyền Trang và Tôn Ngộ Không trong Hang 3, triều đại nhà Nguyên, ở hang Du Lâm, Đôn Hoàng. Trước vách núi sâu, Huyền Trang thành tâm cầu nguyện Bồ tát, Tôn Ngộ Không trông đau khổ và mất kiên nhẫn, sư phụ và đệ tử tương phản rõ rệt. (Phạm vi công cộng)

Huyền Trang chính là nguyên mẫu của Đường Tăng trong tác phẩm “Tây Du Ký”, ông là một cao tăng vào đầu nhà Đường, ông nhận ra sự khác biệt trong Phật giáo giữa Bắc-Nam cũng như việc dịch thuật và chú giải kém cỏi, ông phát nguyện tìm về cội nguồn Phật Pháp, tìm kiếm kinh sách nguyên gốc. Ông đã đi suốt con đường về phía Tây, đi qua Lương Châu, Cao Xương, và Toái Diệp, cho đến khi đến được Pakistan, Ấn Độ. Dù đi đến đâu, Huyền Trang cũng vừa học kinh Phật vừa chiêm ngưỡng các Thánh tích Phật giáo, sau hơn 10 năm trở về Trung Quốc với hơn 600 bộ kinh.

Sau khi trở về nhà Đường, Hoàng đế Thái Tông rất kính trọng vị Pháp sư cát bụi dặm trường, thiết lập một nơi dịch kinh sách đặc biệt cho ông, để ông chuyên tâm vào việc dịch kinh điển. Huyền Trang cũng đã hoàn thành 12 quyển “Đại Đường Tây vực ký” với các đệ tử của mình thông qua lời kể, trong đó ghi lại toàn diện kinh nghiệm tu học của ngài ở Tây Vực.

Trong suốt cuộc đời của mình, Huyền Trang đã dịch hơn 70 bộ kinh, hơn 1.000 quyển, với tổng số hơn 13 triệu từ, chiếm hơn một nửa tổng số bản dịch trong thời nhà Đường. Ông cũng đã trở thành một trong ba dịch giả Phật giáo lớn trong lịch sử Trung Hoa, ấy là Kumarajiva ( Cưu-ma-la-thập) và Chân Đế.

Từ thời Hoàng đế Đường Cao Tông đến những năm đầu Đường Huyền Tông, các vị hoàng đế sau đó vẫn tiếp tục chính sách ủng hộ Phật giáo và hỗ trợ mạnh mẽ cho sự phát triển của Phật giáo. Tương ứng với thời hưng thịnh và thịnh vượng là sự phồn vinh toàn diện của các nhà sư và đền chùa. Trên khắp đất nước cũng dấy lên một làn sóng hoạt động điêu khắc, dưới bối cảnh thời đại lớn như vậy, hang Đôn Hoàng được hoàn thành trong một triều đại và đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật.

Thống trị Tây Vực

Từ cuối nhà Tùy đến đầu thời nhà Đường, mặc dù Đôn Hoàng cách xa những tranh chấp ở vùng Trung Nguyên, nhưng nơi đây vẫn không được yên bình cho lắm. Vào năm Vũ Đức khai quốc triều đại nhà Đường (năm 618), tướng nhà Tùy là Lý Quỹ đã chiếm Hành lang Hà Tây và tự xưng Vương. Hoàng đế Đường Cao Tổ vốn muốn dụ dỗ thu phục ông ta, nhưng Lý Quỹ nhất quyết không đầu hàng, tuy nhiên ông đã bị đánh bại và bị xử tử vào năm sau.

Đây là một góc của bức bích họa thời Ngũ Đại ở Hang 409, hang Mạc Cao, Đôn Hoàng, mô tả hình ảnh công chúa nước Hồi Cốt đang cúng dưỡng. (Phạm vi công cộng)

Huyện Đôn Hoàng (khi Hoàng đế Tùy Dạng Đế bãi bỏ Qua Châu và đổi thành huyện Đôn Hoàng) sau thuộc về nhà Đường, theo quy định chung của việc đổi quận thành châu trong cả nước, nên lại đổi tên là Qua Châu, sau này được phân thành Qua Châu và Tây Sa Châu. Tây Sa Châu dưới quyền cai quản của huyện Đôn Hoàng, đứng đầu là hai quận Đôn Hoàng và Thọ Xương, phạm vi cũng giảm đi rất nhiều. Sau một số cuộc nổi loạn nhỏ, Đôn Hoàng cuối cùng cũng bước vào thời đại thái bình dưới sự thống nhất của nhà Đường. Tuy nhiên, các bộ tộc ở Tây Vực lần lượt tiếp tục xâm lược Hà Tây, triều đình đầu nhà Đường cũng đã thiết lập chiến lược mở rộng Hà Tây và lên chiến lược điều hành Tây Vực.

Trong ba năm Trinh Quán (629), Thái Tông đưa 10 vạn quân đến phía Tây, bắt đầu triển khai đại chiến với Đông Đột Quyết. Với niềm tự hào khi lập công, làm rạng danh những pháo đài biên cương, quân Đường đã nhanh chóng lập được chiến công vang dội và bắt giữ được Khả hãn Hiệt lợi. Sau đó, nước Y Ngô quy về nhà Đường và triều đại Cao Xương cũng quy thuận, mở đầu cho sự liên kết giữa nhà Đường và Tây Vực.

Thổ Cốc Hồn, người đã từng là một bại tướng của quân đội nhà Tùy, lợi dụng chiến tranh loạn lạc vào cuối triều Tùy mà tiếp tục gây ra thảm họa. Vào năm Trinh Quán thứ 9, tướng Lý Tĩnh dẫn đầu cuộc chinh phạt, và giải quyết hoàn toàn những rắc rối ở biên giới Đôn Hoàng. Sau đó, Hoàng đế Thái Tông đã bình Cao Xương, phá Yên Kỳ, thắng Quy Từ, quân Đường giáng một đòn mạnh vào Tây Vực, tất cả các bộ tộc đều quy phục nhà Đường. Hoàng đế Thái Tông lấy lãnh thổ Cao Xương ban đầu đổi thành Tây Châu, thành lập An Tây đô hộ phủ, theo đó lập “An Tây Tứ Trấn” gồm Quy Từ, Vu Điền, Yên Kỳ, Sơ Lặc, đặt nền tảng cho việc điều hành Tây Vực.

Lúc này, con đường tơ lụa trải dài từ Hành lang Hà Tây đến Đôn Hoàng, con đường phía Nam đi qua Vu Điền băng qua dãy núi Thông Lĩnh ở phía Tây, con đường giữa ra khỏi Ngọc Môn Quan, đi qua Tây Châu, Quy Từ, Sơ Lặc về phía Tây. Nhờ vào các chiến tích lừng lẫy của nhà Đường mà việc mở rộng con đường tơ lụa càng thuận lợi và không có chút cản trở nào.

Dưới thời trị vì của Hoàng đế Cao Tông, tình hình ở Tây Vực thay đổi, An Tây đô hộ phủ phải chuyển về Tây Châu, và An Tây Tứ Trấn bị bỏ hoang.

Cho đến những năm đầu của thời Hiển Khánh, quân đội nhà Đường đã phá tan Tây Đột Quyết, thành lập Mông Trì và Côn Lăng đô hộ phủ, An Tây đô hộ phủ được thăng cấp thành Đại đô hộ phủ, chuyển trở lại Quy Từ, lúc này Tứ Trấn được khôi phục.

Bức bích họa thời Ngũ Đại ở Hang 98, Mạc Cao, Đôn Hoàng, miêu tả quốc vương Vu Điền đang cúng dưỡng. (Phạm vi công cộng)

Ảnh hưởng của nhà Đường ở Tây Vực không ngừng mở rộng, nước Thổ Phiên ở phía Tây Nam cũng đang trỗi dậy và bành trướng thế lực sang Tây Vực, vì lý do này mà nhà Đường đã hai lần buộc phải bãi bỏ Tứ Trấn cho đến thời kỳ Ngô Chu, quân đội nhà Đường giành lại quyền kiểm soát Tây Vực, dời An Tây đô hộ phủ trở lại Quy Từ, và Tứ Trấn lại được di dời lần thứ tư. Vào thời điểm này, toàn bộ Tây Vực hoàn toàn nằm dưới quyền kiểm soát của nhà Đường.

Chiến lược điều hành phía Tây của nhà Đường bắt đầu từ Hoàng đế Thái Tông không chỉ thúc đẩy uy tín của đất nước, mà còn tăng cường kết nối giữa Trung Nguyên và Tây Vực, con đường tơ lụa cũng bước vào thời kỳ sầm uất nhất và thịnh vượng nhất. Kinh thành Trường An quy tụ các quý tộc, sứ thần, thương gia và nhà sư từ khu vực phía Tây, trở thành một đô thị quốc tế nổi tiếng thế giới; Đôn Hoàng ở Hà Tây cũng kiểm soát các tuyến đường chính của Trung Nguyên và Tây Vực, trở thành một thị trấn quan trọng về quân sự, thương mại và văn hóa ở Tây Bắc. Hơn nữa, sự gần gũi và tần suất giao lưu giữa Đôn Hoàng và Trung Nguyên là chưa từng có.

Với những đoàn quân viễn chinh và những đoàn lữ hành đường dài, những nghệ nhân và thợ thủ công hàng đầu của Trung Nguyên cũng đặt chân đến vùng đất Đôn Hoàng, mang theo những kỹ năng tuyệt đỉnh và óc thẩm mỹ nghệ thuật độc đáo của triều đại thịnh vượng nhà Đường. Đôn Hoàng, thành phố biên giới cổ kính nổi tiếng với nghệ thuật điêu khắc ở Trung Hoa và cả phương Tây, đã nhanh chóng đón nhận luồng gió hiện đại trong lành đầy sắc màu mới mẻ và tráng lệ, thể hiện ra một diện mạo hoàn toàn mới.

Quy trình tạc hang động

Trong các ngôi đền hang đá cổ, vào thời hoàng kim của nhà Đường, nghệ thuật hang đá đã phát triển đến đỉnh cao, và các công trình xây dựng ở mức quy mô lớn nhất, số hang động hiện có chiếm khoảng một nửa tổng số hang ở Đôn Hoàng.

Trước khi chiêm ngưỡng những hang động phong phú và tuyệt vời của thời nhà Đường, có lẽ mỗi người chúng ta sẽ tự hỏi rằng: Làm thế nào mà tổ tiên có thể đào ra từng chút một để tạo thành một hang động linh thiêng như vậy? Làm thế nào để hoàn thành một kiệt tác ngoạn mục trong một không gian khép kín và tối tăm?

Hình ảnh kiến trúc “Tòa lầu chín tầng” ở Hang 96, phần giữa hang Mạc Cao. (Ảnh: Wikimedia Commons)

Từ quy hoạch, xây dựng đến hình thành, một hang động đòi hỏi một chuỗi công việc phức tạp và tinh tế, phải mất vài năm, thậm chí hơn 10 năm mới hoàn thành với sự cộng tác của những người thợ thủ công cùng nhiều loại công cụ khác nhau như gỗ, đất sét, nhựa, sơn. Đầu tiên là khai quật hang động, bao gồm đào hang và làm trận địa, tức là cơ sở để vẽ tranh trên tường (bích họa).

Theo các tài liệu của Đôn Hoàng, những người “thợ đào hang” là lứa thợ thủ công đầu tiên khai mở hang, họ là một đội xây dựng chuyên nghiệp chịu trách nhiệm lựa chọn địa điểm, thiết kế, khai quật và sửa chữa hang động. Đây không phải là công việc có thể làm được một mình mà cần phải thiết kế cẩn thận theo chủ đề, hình dáng và quy mô của hang. Lấy hang Mạc cao làm ví dụ, núi Minh Sa được chọn làm nơi xây dựng từ bao đời nay, các hang động trải dài khắp mặt vách đá, khi thiết kế cần tìm hiểu kỹ để không chỉ “tận dụng triệt để” mà còn không được phá hủy cấu trúc tổng thể để bảo vệ các hang động khác.

Quy trình cụ thể của việc khoan hang động đầu tiên là đào đường hầm. Sau đó, người thợ đào hang dọc theo đỉnh vách đá và xung quanh, cát đào được đưa ra khỏi đường hầm, đảm bảo an toàn và thuận tiện cho việc vận hành. Sau khi đỉnh của hang được hình thành, đào tiếp xuống cho đến khi toàn bộ hang được khoét hết. Đôi khi, thợ mộc cũng cần xây cung điện, mái hiên, lầu gác và các công trình khác kết hợp với hang động.

Và đối với những hang động siêu khổng lồ như “Tòa lầu chín tầng”, cần phải có những phương pháp đặc biệt. Sau khi đào hết đỉnh hang, đồng thời tiếp tục đào xuống dưới, đào thêm đường hầm thứ hai bên dưới đường hầm, cát đào được sẽ được thải ra khỏi đường hầm bên dưới. Bằng cách này, đường hầm phía dưới được cắt theo trình tự cho đến khi cắt được độ cao mong muốn. Điều này cũng cần tính toán chính xác vị trí hành lang để tăng khả năng chiếu sáng bên trong.

Nếu các trụ tháp, bàn thờ Phật và các tác phẩm điêu khắc lớn được dựng trong các hang động, thì phải đục ra các lốp đá có hình dạng tương ứng trong quá trình khoan hang. Ví dụ, bức tượng Phật lớn trong Hang 96 của hang Mạc Cao là một hình dạng ba chiều thô do người thợ thủ công sử dụng bức tường bên trong của buồng chính. Để hoàn thành một hang động lớn như vậy, phải mất công phu hàng chục năm.

Tiếp theo là trận địa làm tranh tường, tức là gắn một lớp bùn thích hợp để vẽ tranh lên tường đá. Người thợ lấy nguyên liệu tại chỗ, trộn với đất sét, bông và vải lanh,… tạo thành bùn rồi đắp lên thành đá cho mịn như giấy, rồi quét một lớp vôi vữa lên trên bùn. Sau quá trình trang trí, nó được bàn giao cho thợ uốn dẻo và thợ sơn.

Đây là tượng của Hang 390, triều đại nhà Tùy, ở hang Mạc Cao, Đôn Hoàng. (Phạm vi công cộng)

Hầu hết các bức tượng trong hang động đều là tác phẩm điêu khắc bằng đất sét màu, quy trình chính gồm bốn công đoạn là tạo khung xương, tạo bùn, tạo hình và bôi màu. Từ một số tác phẩm điêu khắc màu bị hỏng, có thể tìm thấy quy trình chế tác của người thợ thủ công từ buộc khung xương đến điêu khắc và sơn. Có ba loại khung xương: khung gỗ, đá lốp và khung gỗ, khung gỗ là loại phổ biến nhất và quy trình làm cũng phức tạp nhất. Nhà điêu khắc sử dụng những cành liễu đỏ trên sa mạc làm nguyên liệu thô, dùng rìu nhỏ đục đẽo để tạo hình thân và tay chân, sau đó nung và uốn cành để tạo thành những hình dạng chi tiết như ngón tay, băng đai (ở cờ hay mũ) v.v..

Việc làm bùn cũng quan trọng không kém, những người làm dẻo có kinh nghiệm trộn đất mịn địa phương với cát vàng, rơm lúa mì, bông, vải lanh và các loại sợi thực vật khác theo tỷ lệ tốt nhất để chúng không bị co lại hoặc nứt, vẫn mịn và ổn định sau hàng nghìn năm. Khi tạo hình, trước tiên dùng lau sậy để tạo thành hình dạng chung, sau đó trải đều các lớp keo bùn đặc biệt lên khung. Trong quá trình tô màu, các họa sĩ thường tham gia để tạo ra một bức tượng hoàn hảo với hình dáng đẹp có tông màu tinh tế.

Họa sĩ chịu trách nhiệm chính về việc vẽ các bức bích họa và một số bức tượng. Ở Trường An vào triều đại nhà Đường, các nghệ sĩ nổi tiếng đã tập hợp lại để sử dụng bản thảo gốc của bức tranh, và đó cũng là hình mẫu để sao chép của các họa sĩ trên cả nước. Theo những mẫu phổ biến nhất ở Trung Nguyên, các họa sĩ đã khắc những đường nét phác thảo trên tường đá để vẽ xuất ra thế giới Phật triển hiện trong tâm trí họ. Sau đó, họ lựa chọn các khoáng chất có màu và nghiền thành bột màu quý, chẳng hạn như màu đỏ từ chu sa, màu vàng là từ thư hoàng (orpiment), màu xanh là từ ngọc lưu ly (lapis lazuli) và màu trắng từ mica.

Màu xanh từ ngọc lưu ly. (Ảnh: Wikimedia)
Màu vàng từ thư hoàng. (Ảnh: Wikimedia)
Màu trắng từ mica trong đá. (Ảnh: Wikimedia)

Nói chung, bản thảo được bắt đầu bởi họa sĩ tinh tế nhất, và những người khác sẽ tô màu, cùng nhau hoàn thành những bức bích họa lộng lẫy hoành tráng. Cái khó của tranh nằm ở chỗ, cánh tay trên đỉnh hang không có điểm tựa nên sẽ vẽ trong sự bay bổng của lực hút gió; khi vẽ sát đất phải nằm nghiêng mới vẽ được. Đây không chỉ là một tài năng nghệ thuật, mà còn là một bài kiểm tra về thể lực và sự kiên trì.

Bằng cách này, trong khung cảnh lạnh buốt nơi biên cương với cuộc sống cô đơn, vất vả, những bậc thầy vô danh đã đục từng chút một, sơn từng lớp một, và phác thảo từng chút một… sau 1.000 năm đục đẽo điêu khắc không ngừng nghỉ, kiệt tác của hơn 1.000 bức tượng và 45.000 mét vuông các bức bích họa đã được hoàn thành. Bạn nghĩ xem điều này có vĩ đại và kỳ công hay không?!

Huy Hải
Theo Epochtimes



BÀI CHỌN LỌC

Thời đại hoàng kim của Phật pháp và tạo tượng Phật