Thần tích nước Nam (Kỳ 6): Thánh Gióng - chú bé ngơ ngẩn hay Thần nhân giáng thế? [Radio]

Giúp NTDVN sửa lỗi

Thông điệp giàu ý nghĩa của tổ tiên người Việt đằng sau câu chuyện Thánh Gióng

Lời tựa:

Trong Sấm ký, bản quốc ngữ Hương Sơn của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm mở đầu bằng câu thơ: “Nước Nam thường có thánh tài” như một lời khẳng định nước Nam là một vùng đất “địa linh nhân kiệt”. Thành ngữ Trung Hoa có câu “Sơn Tiên Thủy Long” tạm hiểu là: “núi không cần cao vẫn có tiên ở nên danh nổi, nước không vì sâu vẫn có rồng nằm nên hóa linh”, cũng có thể dùng để nói về nước Nam ta vậy.

Bởi thế, nội dung của loạt bài này sẽ là về những Thần tích nước Nam. Đây là những câu chuyện dẫu có lúc chẳng phải chính sử, mà dựa trên huyền sử, dã sử… vẫn bàng bạc sắc màu của văn hóa thần truyền. Dẫu là tác phẩm phóng tác, đôi lúc hư thực khó phân... vẫn thấm đượm tinh thần và hào khí nước Nam.

Đó vẫn là những tài sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt và nhân loại nói chung, mà chúng tôi muốn góp phần nhỏ bé để truyền tải và lưu giữ.

Kỳ 5: Tản Viên Sơn Thánh - vị thượng đẳng linh Thần, thủy tổ của nước Nam
(Kỳ 7): Lai lịch bí ẩn của Thanh Giang sứ giả - vị Thần bảo hộ nước Nam

Kỳ 6: Thánh Gióng - chú bé ngơ ngẩn hay Thần nhân giáng thế?

Quốc vận suy vi, quốc tổ linh hiển

Chuyện kể rằng cha Lạc Long Quân đem 50 con về biển, mẹ Âu Cơ dẫn 50 con lên núi, rồi người con thứ ba lên ngôi vua, trở thành Hùng Vương thứ nhất của đất Văn Lang. Từ đó, đất nước thái bình, nhân dân no ấm suốt hơn 1000 năm, cho đến thời Hùng Vương thứ 6 là Hùng Huy Vương.

Sự đời có thịnh ắt có suy, thái bình lâu sẽ đến hồi chiến loạn, phải chăng là vì phong hóa sa sút, đức độ mỏng manh hay là tinh thần an hưởng sẽ sinh ra trễ nải, lơ là việc phòng thủ, khiến cho ngoại bang nhòm ngó?

Đó là lúc nhà Ân ở phía Bắc Động Đình Hồ bắt đầu có dã tâm với quốc gia Văn Lang, mượn cớ Văn Lang bỏ bê việc triều cống mà gây sự nơi biên giới.

Hùng Huy Vương lo sợ mới triệu tập quần thần hỏi kế giữ nước. Lúc ấy, có người thuật sĩ mới gợi lại chuyện xưa, bảo rằng: "Xưa kia, người phương Bắc đã từng có thời quấy nhiễu, dân khổ chỉ cần kêu: “Cha ơi! Sao không lại cứu chúng con?” là Lạc Long Quân từ thủy phủ lại hiển linh cứu giúp. Nay giặc mạnh sắp sang, nước nhà nguy biến, sao không cầu ngài giúp cho?”.

Hùng Huy Vương lập đàn tế để cầu đảo (nguồn: NTDVN)

Vậy là Hùng Huy Vương y lời, bèn trai giới ba ngày sau đó lập đàn tế để cầu đảo. Tức thì mưa gió sấm chớp đùng đùng, rồi đột nhiên xuất hiện một cụ già cao hơn chín thước, thân hình tráng kiện, râu tóc trắng muốt, ngồi gần nơi tế đàn mà cười nói tự nhiên. Tả hữu vào tâu, vua thân hành ra vái chào, rước vào trong đàn. Cụ già không nói không rằng, chỉ có đôi mắt hiền từ sáng như sao sa cứ nhìn vua không chớp. Vua thấy lạ mới hỏi: "Nghe tin quân Bắc sang xâm lược, ta thua được thế nào?" (1). Cụ già im lặng, rút thẻ ra bói, rồi bảo vua rằng: "Ba năm nữa giặc Bắc mới sang đây, giờ chúng còn đang chuẩn bị”. Vua lại hỏi kế giữ nước, cụ già đáp: “Kế giữ nước, ấy là phải nghiêm ngặt chỉnh đốn khí giới, rèn luyện binh lính cho tinh nhuệ, lại phải đi tìm bậc kỳ tài trong thiên hạ, kẻ nào phá được giặc thì phong cho tước ấp, truyền hưởng lâu dài. Nếu được người giỏi, có thể dẹp được giặc vậy” (2). Dứt lời, cụ già bay vút lên không, hiện thân rồng vàng vẩy sáng lấp lánh, mắt chớp hào quang, cuồn cuộn giữa không trung mà phun mây nhả mù rồi biến mất về phía đông. Vua tôi biết đấy chính là cha Lạc Long Quân về vậy.

Bé con ngơ ngẩn hay Thần nhân giáng thế?

Ở làng Phù Đổng, huyện Vũ Ninh (nay là Tiên Du, Bắc Ninh) có phú ông tuổi đã sáu mươi mà chưa có mụn con nối dõi. Sáng hôm ấy, có người vợ thứ ra vườn hái cà, bỗng vô tình giẫm vào một vết chân khổng lồ. Về nhà bà thấy trong người khang khác. Đêm ấy, có vị thần hình dung quắc thước, râu tóc trắng tinh hiện lên rồi nói:

“Ta ban cho vợ chồng ngươi đứa bé này, nó chẳng phải kẻ tầm thường, nhưng nếu chưa đến lúc thì không hiển lộ thần kỳ được. Sau này, nó sẽ lớn ngang ngọn tre để giúp dân cứu nước, đến khi công thành thì thân thoái để hồi thiên. Các ngươi dù giầu có, cũng chẳng đủ cơm gạo để nuôi nó, nhưng có trách nhiệm chăm nom nó cho đến ngày hữu sự. Nhớ lấy”.

Người đàn bà sực tỉnh, té ra là một giấc mộng.

Rồi chín tháng mười ngày sau, bà sinh ra một cậu bé bụ bẫm. Nhân nhớ lại trong giấc mộng về chú bé cao ngang ngọn tre, bèn đặt tên là Gióng. Cả gia đình phú ông mừng rỡ vô cùng, coi như báu vật.

Nhưng niềm vui ấy chẳng được bao lâu, bởi chú bé sinh ra không khóc, cũng chẳng biết bi bô nói cười, khuôn mặt lại có vẻ ngơ ngác. Niềm vui của phú ông và gia tộc đã dần dần biến thành nỗi thất vọng. Đến năm Gióng lên ba tuổi vẫn đặt đâu nằm đấy không nói không cười như thế, vẻ ngây ngô chẳng đổi. Bởi vậy, dường như không còn ai trong nhà đặt hy vọng vào chú bé nữa, chỉ còn người mẹ trẻ thương con vẫn sớm hôm săn sóc, không một lời phàn nàn oán hận.

Năm Gióng ba tuổi, cũng là năm giặc Ân tràn sang xâm lược.

Thế giặc rất mạnh, quân Nam xem ra không chống nổi. Hùng Huy Vương bấy giờ nhớ lại lời của Long Quân, bèn cho sứ giả đi khắp nơi cầu hiền tài.

Một hôm, sứ đến làng Phù Đổng, cho người đi khắp làng bắc loa kêu gọi. Mẹ Gióng lúc ấy đang đưa võng cho con ngủ, mới nói đùa rằng:

“Gióng ơi, hay con xung quân đánh giặc, để triều đình ân thưởng, báo đáp công cha sinh mẹ dưỡng con nhé”.

Chẳng ngờ Gióng đang nằm thiu thiu trên võng bỗng lật mình ngồi thẳng dậy, mắt mở tròn to nghiêm nghị và thấu suốt, giọng hùng hồn dõng dạc:

“Mẹ, đến lúc rồi, mẹ ra mời giúp sứ giả vào đây cho con”.

Mẹ Gióng giật nảy mình lảo đảo, tay vịn ghế mới khỏi ngã. Trên võng, Gióng vẫn ngồi thẳng lưng, im lặng nhìn mẹ, vẻ ngây ngô đờ đẫn hoàn toàn biến đâu mất.

Mẹ Gióng mới loan báo cho người nhà và hàng xóm láng giềng, người ta chạy sang xem, thấy chú bé Gióng chỉ một mực đòi gặp sứ giả, ai cũng lấy làm kỳ lạ. Rồi cuối cùng cũng có người đi mời sứ giả đến.

Sứ giả tới nơi mới hỏi: “Mày là đứa trẻ mới biết nói, mời ta đến làm gì?” (3). Gióng mới oai vệ bước xuống võng, chắp tay sau lưng nhìn thẳng sứ giả nói: “Mau về tâu với vua rèn một ngựa sắt cao mười tám thước, một thanh kiếm sắt dài bảy thước và một nón sắt. Ta cưỡi ngựa đội nón ra đánh, giặc tất phải kinh sợ bại trận, vua phải lo gì nữa?” (4)

Sứ giả mừng rỡ vội về tâu vua. Vua vừa kinh ngạc vừa mừng nói rằng: "Ta không lo nữa rồi".

Quần thần tâu: "Một người thì làm sao mà đánh bại được giặc?" (5) Vua nổi giận nói: "Lời nói của Long Quân ngày trước không phải là ngoa, các quan chớ nghi ngờ gì nữa”. (6)

Rồi ngay lập tức sai đúc ngựa sắt, nón sắt và rèn gươm cho Gióng dùng.

Sứ giả lại đến báo, mẹ Gióng hoang mang không biết đây là phúc hay họa. Gióng cười lớn bảo rằng: “Mẹ hãy chuẩn bị cơm gạo cho con ăn, việc đánh giặc mẹ chớ có lo”. (7)

Gióng ăn rất khỏe, gia đình cung đốn không đủ. Nhưng mỗi lần ăn xong, thân hình Gióng lại lớn lên trông thấy. Làng xóm thấy Gióng như thế, hò nhau tiếp tế, từ ngũ cốc đến hoa quả, đến thịt cá các loại, bao nhiêu Gióng cũng ăn hết, tưởng như đổ thức ăn vào một cái động không đáy. Quần áo may không kịp, Gióng phải lấy tạm hoa lau buộc vào để che thân.

Chú bé lên ba đại phá giặc Ân

Lúc ấy có tin cấp báo, giặc Ân đã đến chân núi Trâu Sơn ở Vũ Ninh, triều đình cũng đã cho chuyển ngựa sắt, áo giáp, nón sắt và kiếm đến. Gióng bèn vươn vai đứng dậy, ngửa mặt hét lớn một tiếng xông lên tận trời, thân mình bỗng cao ngang ngọn tre lớn nhất. Gióng mặc áo, đội nón, cầm gươm rồi nhảy phắt lên ngựa sắt, ngựa chồm lên đứng trên hai chân sau hí vang, miệng phụt ra lửa đỏ, mắt rực lên như hai khối than hồng. Trong chớp mắt, ngựa đã phi đến chiến trường rồi dẫn đầu quân Nam. Ngựa sắt tiến trước, quân Nam theo sau, chẳng bao lâu đã đến trại giặc, chỉ thấy khắp rừng đầy núi là giặc, thế mạnh và hung hãn vô cùng.

Thánh Gióng đại phá giặc Ân (nguồn: ntdvn)

Giặc thấy quân Nam đến, thì tuốt gươm rút giáo sáng lòa, la hét rầm rĩ, đồng thời thổi tù và inh ỏi, đánh trống thùng thùng để thị uy. Quân Nam trông thấy bèn khựng lại, không tiến lên nữa.

Bỗng Gióng hét lớn một tiếng rung chuyển cả rừng núi, ngựa sắt cũng hí vang như sấm, tiếng tù và, trống lớn của quân địch bỗng im bặt, chúng đờ ra vì sợ hãi. Gióng thúc ngựa xông thẳng vào trung quân của giặc, quân Nam ồ ạt kéo theo sau. Gươm trong tay Gióng bổ xuống, thân xác giặc văng ra rào rào. Ngựa sắt phi rầm rập, dẫm đạp chết vô khối địch quân, miệng thở phì phì ra từng luồng lửa đốt cho đồn trại giặc cháy rừng rực, cháy lan cả rừng. Gióng phi ngựa từ đầu trận đến cuối trận rồi lại quay lại, ngựa phi đến đâu giặc tan đến đấy, khắp nơi là khói bụi mịt mù, tiếng kêu khóc của quân giặc nổi lên inh ỏi, thây giặc chất đống nghẽn cả lối đi.

Bỗng “rắc” một tiếng lớn, thanh gươm sắt trong tay Gióng gãy đôi. Giặc mừng rỡ xúm lại định vật đổ Gióng từ trên mình ngựa. Không nao núng, Gióng thuận tay nhổ một bụi tre ven đường, quật cho quân giặc chết như ngả rạ. Những tên còn lại hò nhau tháo chạy.

Công thành thân thoái

Đuổi giặc đến chân núi Sóc Sơn, xem chừng giặc đã tan, Gióng mới dừng lại, xuống ngựa cởi giáp ngồi nghỉ. Ngựa sắt lại đứng bất động như cũ. Bỗng trên trời sáng lòa ánh chớp, rồi một Thần nhân râu trắng tóc bạc đứng giữa không trung, xiêm áo phất phơ, hai tay vươn ra hướng về phía Gióng. Gióng hiểu ý, từ từ đứng dậy, rồi thân mình từ từ bay lên đến chỗ Thần nhân, cả hai bay vút lên không trung xa thẳm và biến mất, chỉ để lại một áng mây ngũ sắc bảng lảng trời chiều.

Công thành thân thoái - đánh giặc xong Gióng bay về trời (nguồn ảnh: ntdvn)

Con đường Gióng đã đi qua, sau này để lại những dãy ao tròn nối nhau suốt từ Kim Anh, Đa Phúc cho đến Sóc Sơn, đó chính là vết chân ngựa sắt tạo thành. Khu rừng bị ngựa sắt phun lửa thiêu cháy nay gọi là làng Cháy. Những cây tre mà Gióng nhổ quật vào giặc bị hun lửa ngả thành màu vàng óng và có những vết cháy lốm đốm, nay gọi là giống tre đằng ngà.

Hùng Huy Vương sai lập đền thờ Gióng ở quê hương Phù Đổng. Sau này, vua Lý Thái Tổ lại phong Gióng làm Xung Thiên Thần vương, lập miếu ở làng Phù Đổng cạnh chùa Kiến Sơ, lại tạc tượng ở núi Vệ Linh, xuân thu hai mùa tế lễ. Thánh Gióng đã trở thành một trong các vị Thần bất tử (Tứ bất tử), đứng đầu các Thần thánh của nước Nam.

Thánh Gióng, con người sinh ra chẳng biết nói biết cười, trong mắt người thường tưởng như trì độn ngây ngốc, là đồ vô dụng, kẻ bỏ đi… thế mà đến lúc gặp đại sự thì vươn mình lớn bổng, trổ thần thông quảng đại như chớp giật sấm vang, ấy là kẻ “đại trí nhược ngu”, mấy ai lường nổi. Đến khi thành công thì rút lui không nhận công lao, chẳng màng danh lợi, gọi là “công thành thân thoái”, chẳng như ai kia kể lể công lao mà bắt dân phục dịch, đòi nước nhớ ơn. Gióng lại thăng thiên về Trời, trở về với nguồn gốc của sinh mệnh, vì việc đã xong ai còn lưu luyến cõi trần? Lại xét từ việc Lạc Long Quân hiển linh để sắp xếp, thấy rằng chỉ cần con cháu nước Nam nhớ đến tổ tiên, nhớ về nguồn gốc, thì cha Lạc Long Quân vẫn luôn luôn bảo hộ. Cao hơn nữa vẫn là an bài của Thiên thượng, trong mọi việc cốt chỉ để xem thái độ của con người ra sao mà thôi.

“Đại Nam Quốc sử Diễn ca” có đoạn:

Sáu đời Hùng vận vừa suy,
Vũ Ninh có giặc mới đi cầu tài.
Làng Phù Đổng có một người,
Sinh ra chẳng nói, chẳng cười trơ trơ.
Những ngờ oan trái bao giờ,
Nào hay thần tướng đợi chờ phong vân.
Nghe vua cầu tướng ra quân,
Thoắt ngồi, thoắt nói muôn phần khích ngang.
Lời thưa mẹ, dạ cần vương,
Lấy trung làm hiếu một đường phân minh.
Sứ về tâu trước thiên đình,
Gươm vàng, ngựa sắt đề binh tiến vào.
Trận mây theo ngọn cờ đào,
Ra uy sấm sét, nửa chiều giặc tan.
Áo bào cởi lại Linh San,
Thoắt đà thoát nợ trần hoàn lên tiên.
Đền thiêng còn dấu cố viên,
Sử xưa còn đó lời nguyền còn đây.

Nguyên Phong

Tài liệu tham khảo:

Loạt bài có tham khảo những tài liệu văn sử có giá trị của nước Nam như: “Lĩnh Nam chích quái”, “Việt điện U Linh”, “Thiền uyển tập anh”, “Truyền kỳ mạn lục”, “Việt sử tiêu án”, “Đại Việt sử ký toàn thư”, “Khâm định Việt sử Thông giám cương mục”... và cả sử Trung Hoa trong cuốn “Lịch sử Việt Nam qua chính sử Trung Hoa” của học giả Cao Tự Thanh, sử Việt từ góc nhìn Trung Hoa trong “An Nam chí lược” của Lê Tắc… và cả trang Wikipedia.

(1), (2), (3), (4), (5), (6), (7): Trích sách “Lĩnh Nam Chích Quái” của Trần Thế Pháp.



BÀI CHỌN LỌC

Thần tích nước Nam (Kỳ 6): Thánh Gióng - chú bé ngơ ngẩn hay Thần nhân giáng thế? [Radio]