Nghiêu Thuấn Vũ (P- 7): Đại Vũ trị thuỷ sông Trường Giang

Giúp NTDVN sửa lỗi

Vì để ca ngợi công lao trị thuỷ của Đại Vũ, Nghiêu đế đã lệnh cho Thuấn tặng Vũ một miếng ngọc bích màu đen tượng trưng cho màu của nước để tuyên bố với thiên hạ trị thuỷ thành công.

Xem lại (Phần 1: kỳ 1, kỳ 2); (Phần 2: kỳ 1, kỳ 2); (Phần 3); (Phần 4); (Phần 5); (Phần 6)

Trị thuỷ hệ thống sông miền nam.

Hệ thống sông ngòi ở miền nam dày đặc, chủ yếu có sông Trường Giang (Đại Giang), sông Hoài, và các chi lưu của sông Trường Giang cũng rất phong phú.

Theo kế hoạch trị thuỷ vùng Từ Châu, bao gồm Từ Châu, Dương Châu và một phần Dự Châu. Phía đông của Từ Châu bắt đầu từ biển lớn, phía nam đến bờ bắc của sông Hoài, phía bắc đến núi Thái Sơn. Sông gồm có sông Hoàng Hà, sông Hoài và sông Nghi; hệ thống núi gồm có Mông Sơn, Vũ Sơn. Hướng đông trị thuỷ sông Tứ, sông Nghi Mông, hướng nam trị thuỷ sông Hoài, từ núi Đồng Bách bắt đầu khai thông sông Hoài, chảy về phía đông rồi gặp nhau với sông Tứ, sông Nghi rồi chảy về phía đông nhập vào biển lớn. Ở núi Nghi Mông, núi Vũ Sơn đã có thể trồng trọt được.

Lấy vợ Đồ Sơn

Vũ năm 30 tuổi vẫn chưa lấy vợ, Vũ nói: "Nếu ta lấy vợ, ắt có một loại điềm lạ".

Vũ trước khi lên đường trị thuỷ sông Hoài thì có một con cáo trắng chín đuôi đến thăm Vũ, nói: "Nhà tôi ở nước Đồ Sơn nằm cạnh núi Đồ Sơn ở phương nam. Quốc vương của nước Đồ Sơn đó có hai cô con gái, rất mỹ lệ, tài đức vẹn toàn, muốn đem gả cho ngài". Vũ lấy lý do khác biệt giống loài mà cự tuyệt.

Cáo chín đuôi nói: "Giờ tôi dùng hình tượng cáo trắng chín đuôi này đến gặp ngài, là vì hôm trước ngài có nói một lời, nói ông lấy vợ thì nhất định có điềm lạ, nên tôi mới cho ngài một điềm lạ, cũng là đến cho ông một điềm lành. Ngài muốn tôi là thân người thì có gì khó đâu?" Vừa nói xong nó lắc mình, trong nháy mắt liền hoá thành một ông già tóc trắng, tiên phong đạo cốt, khí khái phi phàm.

Đại Vũ thấy ông già phi phàm, rất có lai lịch. Ông nghĩ, màu trắng là y phục của mình, chín đuôi là số biểu thị Thái dương, là minh chứng cho vua. Vì vậy, Đại Vũ đồng ý cuộc hôn nhân này, Vũ đến nước Đồ Sơn và thành thân với hai con gái Nữ Kiều và Nữ Du của vua nước Đồ Sơn.

Vào ngày thứ tư, Đại Vũ từ biệt Nữ Kiều và Nữ Du, rồi lên đường đi trị thuỷ sông Dĩnh và sông Hoài. Sử sách chép rằng: "Vũ kết hôn với con gái vua nước Đồ Sơn, không vì tư mà ảnh hưởng việc công, nghỉ bốn ngày từ ngày Tân đến ngày Giáp, ông lại tiếp tục trị thuỷ". Các thế hệ sau ở các vùng Cửu Giang, Đương Đồ và Giang Hoài, lấy các ngày Tân, Nhâm, Quý, Giáp thành ngày kết hôn và trở thành một phong tục.

Hàng phục Vu Chi Kỳ

Vào thời đó, ở núi Đồng Bách sông Hoài có một con thủy quái thần thông quảng đại tên là Vu Chi Kỳ, theo "Cổ nhạc độc kinh" ghi chép: "nó giống như một con vượn có mắt vàng, răng tuyết, nhanh như chớp". Khi Đại vũ trị thuỷ sông Hoài, Vu Chi Kỳ làm điều ác và can nhiễu việc trị thuỷ, Vũ đã hàng phục nó và nhốt nó trong giếng Hoài, đây là câu chuyện “Vũ Vương nhốt thuồng luồng" nổi tiếng.

Chuyện kể rằng ngàn năm sau, vào thời nhà Đường, ở Sở Châu có một ngư dân đang câu cá trên sông Hoài, bỗng nhiên câu phải một sợi xích sắt dài vô tận. Thứ sử Lý Dương nghe được tin này bèn triệu người đến kéo xích sắt. Khi dây sắt kéo đến cùng, thì một con khỉ xanh bất ngờ nhảy ra khiến ai cũng kinh hãi, con khỉ xanh cầm lấy xích sắt rồi lại nhảy xuống nước.

Ba lần đi qua nhà

Vũ tiếp tục trị thuỷ sông Hoài. Bước đầu tiên là nạo vét lòng sông Hoài; bước thứ hai là đục núi Đồ Sơn và núi Kinh Sơn ở phía bắc. Ban đầu hai ngọn núi liên kết với nhau, sau khi đục, sông Hoài chảy qua giữa hai ngọn núi; bước thứ ba là đục núi Giáp Thạch, khiến cho sông Hoài cũng chảy qua giữa hai ngọn núi; bước thứ tư là trị thuỷ các nhánh sông.

Một ngày nọ, Đại Vũ lại theo sông Hoài mà đi lên, kiểm tra công trình ở các nơi, đi đến khu đục phá ở Đồ Sơn và Kinh Sơn. Lúc đó, nước Đồ Sơn đã từ Giang Nam chuyển về nguyên quán. Bất ngờ nghe tin Đại Vũ đến, cả nước hân hoan chào đón. Đại Vũ giao lưu một hồi, nhưng ông không về thăm lại nhà, mà lập tức quay lại công trường, sau đó lại theo sông Hoài mà tiếp tục đi lên.

Đại Vũ lại đi về phía tây, sau đó trị thuỷ sông Dĩnh, sông Nhữ và sau đó là sông Nghi.

Đến lúc này, lũ lụt ở Từ châu và Dự Châu đã gần như không còn. Sau khi trị thuỷ, nơi đây trở thành một vùng đất màu mỡ.

Một hôm, khi Đại Vũ trị thuỷ Dương Châu trên đường đi qua Đồ Sơn, đi ngang qua cửa nhà, nghe thấy bên trong có tiếng khóc oa oa của trẻ nhỏ, nhưng Đại Vũ vẫn không thể vào thăm nhà.

Lại có lần, có người từ Đồ Sơn đến nói với Đại Vũ rằng: Phu nhân nghe tin ngài trị thuỷ sẽ đi ngang qua nhà, có thể gặp nhau, đã rất vui mừng, bà ôm con trai đứng trên một tảng đá lớn ngoài cửa trông mong. Nhưng Vũ vẫn không thể bớt được thời gian về thăm vợ con. Ở phía đông Đồ Sơn có một hòn Vọng Phu, Nữ Kiều đã đứng trên hòn đá lớn này mong ngóng Đại Vũ trở về. Đây là câu chuyện Đại Vũ ba lần qua nhà nhưng không vào nhà cảm động lòng người.

Đả thông con đường hẹp Hoàn Viên

Giữa núi Thái Thất và núi Thiếu Thất ở Dự Châu, có một con đường hẹp gọi là Hoàn Viên. Nếu mở được con đường này, không những có thể xả lũ mà sau khi xả lũ xong còn có thể trở thành một đường đi thuận tiện từ kinh đô đến Tung Sơn. Vì thế, Vũ quyết định đả thông con đường hẹp này.

Khi đục con đường hẹp này, đá trở nên rất cứng và khó đục. Đại Vũ nói: “Ta sẽ đục!” Ông cầm rìu phá núi trong tay, cầm theo cả trống và dặn dò mọi người: “Khi ta đục núi, không được lên núi can nhiễu. Khi hoàn thành, nghe ta đánh trống thì có thể lên núi".

Đại Vũ nói xong, sắp đi lên núi, thì mới hay tin, hai vị phu nhân từ Đồ Sơn đến. Đại Vũ ngạc nhiên: Tại sao sớm không đến, muộn không đến, mà vừa lúc ta sắp lên núi lại cùng nhau đến công trường? Lúc đó Nữ Du đang mang thai,... Đối mặt với hai vị phu nhân, Đại Vũ không có thời gian nấn ná, liên tục vẫy tay hai vị phu nhân nói: "Không còn thời gian nữa, không còn thời gian nữa, giờ ta phải lên núi, các nàng ở dưới núi đợi ta, xong việc ta sẽ trở lại”.

Hai vị phu nhân hỏi: "Khi nào thì hoàn thành?"

Đại Vũ chỉ vào chiếc trống trong tay và nói: “Khi nghe tiếng trống của ta vang lên, thì là xong việc rồi.” Sau đó, ông nâng trống và rìu núi lên rồi nhanh chóng lên núi.

Hai vị phu nhân đành đợi ở dưới núi. Gần tới buổi trưa, thì nghe thấy có tiếng trống từ trên núi, liền nói: “Công trình đã xong, chúng ta lên núi gặp chàng nhé.” Nói xong, Nữ Kiều dìu Nữ Du lên núi. Không ngờ khi đi lên núi, thì không thấy Vũ đâu, mà chỉ thấy một con rồng vàng, toàn tâm toàn ý tạc núi ở đó. Đằng sau có một cái trống, thỉnh thoảng đuôi của nó đập vào trống phát ra tiếng động thùng thùng. Nữ Kiều đã nhìn thấy và kéo Nữ Vu chạy xuống núi.

Vũ biết rằng hình dạng thật đã bị họ phát hiện, liền khôi phục lại hình người, rồi vội vã xuống núi để giải thích cho hai vị phu nhân. Nào ngờ Nữ Du đã biến thành một tảng đá lớn bên đường, Vũ nói với hóa thạch: "Nàng biến thành hòn đá, không muốn gặp ta, nhưng con trai của ta thì phải trả nó lại cho ta". Nói chưa dứt lời, đột nhiên nghe thấy một âm thanh, hóa thạch đột nhiên vỡ ra, rồi một đứa bé trừ trong chui ra, là một bé trai. Vũ đặt tên là "Khải" vì cậu bé do hòn đá tách ra mà sinh ra.

Có tư liệu viết rằng Vũ hóa thành gấu vàng, như đã đề cập trước đó, trên thực tế Vũ ở đây hoá thành không phải là gấu vàng, là hoàng năng, là chữ năng dưới có ba chấm, âm đọc là Long, nói một cách chính xác là Hoàng Long. Khi đục Long Môn, cũng có thuyết rằng Vũ biến thành Hoàng Long (rồng vàng).

Đường Hoàn Viên đã được thông, lộ trình từ sông Lạc đến Tung Sơn được rút ngắn rất nhiều, sau này trở thành đại lộ bắc nam.

Trị thuỷ Dương Châu và Kinh Châu

Dương Châu nằm về phía nam của sông Hoài, phía nam kéo đến biển lớn thuộc về Dương Châu. Đây là vùng đất trũng ẩm ướt. Hồ Hồng Trạch, hồ Cao Bưu, Thái Hồ (Chấn Trạch), hồ Bành Lễ và vịnh Hàng Châu thảy đều nằm trong đó. Sông gồm có sông Tùng, sông Tiền Đường, sông Phổ Dương, v.v ... Vũ dẫn hệ thống sông này vào biển Hoàng Hải, khu vực Chấn Trạch cũng được ổn định.

Tiếp theo, trị thuỷ Kinh Châu. Từ Cảnh Sơn ở Hồ Bắc đến phía nam Hành Sơn ở Hồ Nam đều thuộc về Kinh Châu, hệ thống sông ở đây rất dày đặc. Từ phía tây hồ Bành Lễ, Vũ trị thuỷ hồ Động Đình và các phụ lưu của nó là 9 con sông: Nguyên(沅), Tiệm, Nguyên(元), Thần, Tự, Dậu, Lễ, Tư, Tương để chúng hội tụ ở hồ Động Đình. Tại phía bắc sông Trường Giang dẫn núi Kinh Sơn để lưu thông sông Thư và sông Chương; giữa Chung Tường và Kinh Môn dẫn vào Phương Sơn, khơi thông sông Tiềm và sông Hán, dẫn sông Hán chảy vào sông Trường Giang; dẫn từ núi Hồng Bách đến núi Bồi Vỹ thuộc An Lục ở hạ du sông Vĩ, trị thuỷ đầm Vân Bạch, dẫn từ núi Kê Công đến núi Đại Biệt, khơi thông sông Hoàn, sông Nhiếp, sông Cử, sông Ba, sông Hy. Rất nhiều phụ lưu của sông Hoàng Hà hầu hết đã có kênh sông dẫn nước cố định. Vân Trạch, Mộng Trạch cũng đã được trị thuỷ, đất đai ở đây đã có thể canh tác.

Sau khi Vũ trị thuỷ Kinh Châu, ở phía bắc ông lại tiến đến Dự Châu, trị thuỷ ở trung du sông Hán. Ở phía bắc núi Đồng Bách trị thuỷ núi Ngoại Phương và núi Hùng Nhĩ, giữa hai ngọn núi này là sông Y và sông Lạc. Từ núi Hùng Nhĩ, bắt đầu dẫn nước sông Lạc, chảy về phía đông bắc rồi gặp sông Hà, sau đó chảy về phía đông đến Yển Sư gặp sông Y, tiếp tục chảy về phía đông qua Củng Nghĩa và nhập vào Hoàng Hà.

Vũ xẻ Tam Hiệp

Tiếp theo, trị thuỷ Lương Châu. Lương Châu giáp Kinh Châu về phía đông và Ung Châu về phía tây bắc, bao gồm toàn bộ tỉnh Tứ Xuyên, tây Hồ Bắc, Thiểm Tây và phía nam Cam Túc, có diện tích khoảng 1,48 triệu km vuông. Lương Châu nằm ở thượng nguồn sông Trường Giang, hệ thống sông dày đặc, tứ bề đều có núi non bao bọc, đường thủy không thông suốt, nước bị tắc nghẽn lại ở đây. Ở đây chủ yếu là trị thuỷ sông Mẫn, sông Hắc, nạo vét sông Đà và khai thông Tam Hiệp.

Đại Vũ khoan thủng hẻm núi Hoàng Ngư và hẻm núi Ba Sơn, dẫn nước từ sông Mẫn nhập vào sông Trường Giang. Lượng nước của sông Mẫn rất lớn, để giảm bớt thế nước của sông Mẫn, Đại Vũ đã đào một kênh sông khác ở phía đông của sông Mẫn, gọi là sông Đà. Như thế nước sông Mẫn sẽ được dẫn vào sông Trường Giang một cách thuận lợi.

Một eo núi ở Tam Hiệp trên sông Trường Giang (Wikipedia)
Một eo núi ở Tam Hiệp trên sông Trường Giang (Wikipedia)

Việc đào Tam Hiệp là một dự án quan trọng trong việc trị thuỷ Lương Châu. Vu Sơn Tam Hiệp kéo dài 700 dặm, núi kề núi, đỉnh núi san sát, đá núi cứng một cách dị thường. Đại Vũ thỉnh cầu Vân Hoa phu nhân giúp đỡ, Vân Hoa phu nhân thi triển thần thông, dùng sấm sét đánh. Những tảng đá cứng dần trở nên lơi lỏng, mọi người rất nhanh chóng đã đả thông Tam Hiệp Vu Sơn, nước lũ ào ào chảy ra khỏi Ba Thục và cuối cùng chảy ra biển lớn.

Trước khi Đại Vũ trị thuỷ, dòng chảy chính của sông Trường Giang không chảy qua Tam Hiệp hiện nay, mà chảy qua sông Sầm ở Nam Giang cổ đại. Nhà địa lý học Hồ Vị thời nhà Thanh giới thiệu trong “Vũ Cống Thùy Chỉ” rằng: Trước khi Đại Vũ trị thuỷ đục thông Tam Hiệp, nước sông Ngư Phúc thuộc Tứ Xuyên từ Phùng Tiết chảy qua Nghi Đô nhập vào sông Đại Giang. Đây là dòng chảy chính của sông Trường Giang thời cổ đại. “Thủy Kính Chú Sớ” ghi chép: “Nước sông chảy qua, Vũ đoạn đứt Nam Giang, Hiệp Bắc có thôn Thất Cốc, giữa hai núi có nước trong và sâu, nước sâu nhưng không chảy. Từ xa xưa cũng truyền miệng rằng trước đây vốn là một con sông lớn, đến khi Vũ trị thuỷ, sông này nhỏ không đủ để xả nước, Vũ khai mở Hiệp Khẩu ngày nay, nước chảy ào ạt và dòng sông này liền cạn, ngày nay được gọi là Đoạn Giang". Chính là nói "Vũ Đoạn Giang" từng là dòng chảy chính của sông Trường Giang. Khi Đại Vũ trị thuỷ, sông Nam Giang quá hẹp để đáp ứng nhu cầu thoát nước, nên Đại Vũ đã mở dòng chảy hiện tại. Vì vậy, dòng sông trước đây có tên là "Nam Giang" đã ngừng chảy và được gọi là "Vũ Đoạn Giang", tức là "Đoạn Giang Hiệp" hay "Đoạn Giang Sơn" được nhắc đến trong "Đông Hồ Huyền Chí".

Đại Vũ khơi đào Vu Sơn, dẫn nước sông chảy về hướng đông, và cuối cùng khiến sông Trường Giang chảy về đông qua 5 hồ (hồ Động Đình, hồ Bà Dương, Thái Hồ, hồ Hồng Trạch và hồ Sào ở trung du và hạ du sông Trường Giang), nước ở Tam Hiệp từ đây được thông suốt. Dòng chảy chính của Trường Giang chuyển sang dòng chảy như hiện nay.

Điều khiến các nhà địa chất quan tâm là sông Trường Giang cắt ngang phần trục lõi của nếp lồi Hoàng Lăng tại Tây Lăng Hiệp. Nói cách khác, trước khi hình thành dòng chảy ở Tam Hiệp, ở đây có lẽ là có những ngọn núi nhô cao chặn dòng nước phía đông.

Truyền thuyết kể rằng Đại Vũ trị thuỷ xẻ Tam Hiệp có Thần Ngưu tương trợ. Lúc đó Tam Hiệp không có kênh sông, chỉ có con sông nhỏ ở phía nam hiện nay gọi là "Đoạn Giang", không đủ để xả lũ nên Vũ đã xẻ Tam Hiệp. Nữ thần Vu Sơn đã thỉnh Thổ Tinh giúp đỡ, Thổ Tinh biến thành một con trâu vàng đầu to (Hoàng Ngưu) giúp Vũ đả khai Tam Hiệp. Để kỷ niệm Hoàng Ngưu giúp Đại Vũ khai Tam Hiệp, người ta dựng lên Hoàng Ngưu miếu dưới vách núi Hoàng Ngưu. Vào thời Tam Quốc, Thục tướng Gia Cát Lượng đã cho trùng tu Hoàng Ngưu Miếu và dựng bia đá. Trên bia có khắc dòng chữ “Hoàng Ngưu Miếu Ký”. Vào thời Bắc Tống, khi Âu Dương Tu nhậm chức huyện lệnh huyện Di Lăng, ông đổi tên "Hoàng Ngưu Miếu" thành "Hoàng Lăng Miếu".

Tiếp đó, Đại Vũ trị lý nước đọng ở các hồ lớn và các vùng trũng thấp, Hành Sơn Thần kiến nghị Đại Vũ cầu cúng Thiên Đế ban cho tức thổ, vậy nên Đại Vũ bái cầu Thượng Đế ban cho tức thổ để xử lý nước tù đọng ở các hồ lớn và các vùng đất trũng. Đồng thời, đào thêm một số hồ xuôi men theo dòng Trường Giang để điều tiết nước sông Trường Giang, khi nước lên cao có thể xả và trữ nước, vào mùa nước cạn, dùng để tưới tiêu. Những hồ nước dọc sông Trường Giang này khiến cho vùng trung du và hạ du sông Trường Giang hiếm khi xảy ra lũ lớn và chuyển dòng.

Lập bia trên đỉnh núi Cẩu Lũ

Một ngày nọ, Vũ trên đường đi qua Hành Sơn, trèo lên đỉnh núi cao nhất, chuẩn bị một con vật để cúng tế, cung kính dâng lễ. Khoảng bảy tám công trình trong số mười công trình trị thuỷ đã được hoàn thành, việc kiểm soát lũ thành công đã ở trong tầm mắt. Ông quyết định khắc đá lập bia để kỷ niệm. Cuối cùng, chọn đặt tấm bia trên đỉnh núi Cẩu Lũ. Trước đây, nó được gọi là "bia Cẩu Lũ", cũng được gọi là Bia Vũ Vương.

Đỉnh núi Cẩu Lũ là một trong 72 đỉnh của Hành Sơn, "bia Cẩu Lũ" đứng trên một tảng đá tự nhiên, tương truyền rằng nơi dựng bia chính là vị trí của mặt nước lúc bấy giờ. Bia cao bảy thước, rộng năm thước, dày một thước, khắc lên bảy mươi bảy chữ, giống như con nòng nọc, lại giống như chữ điểu triện. Đây được xem là bia đá cổ nhất ở Trung Quốc.

Vào năm Gia Định thứ 5 của triều đại Nam Tống (năm 1212), Hà Trí đi đến Hành Sơn, nhìn thấy bia Vũ Vương, đã đồ lại toàn văn, rồi lập bia khắc lại trên núi Nhạc Lộc ở Trường Sa. Bức ảnh chụp Vũ Vương Bia trên núi Nhạc Lộc. (Zhangzhugang / Wikipedia)
Vào năm Gia Định thứ 5 của triều đại Nam Tống (năm 1212), Hà Trí đi đến Hành Sơn, nhìn thấy bia Vũ Vương, đã đồ lại toàn văn, rồi lập bia khắc lại trên núi Nhạc Lộc ở Trường Sa. Bức ảnh chụp Vũ Vương Bia trên núi Nhạc Lộc. (Zhangzhugang / Wikipedia)

Ở nơi này, Đại Vũ nhận được thẻ vàng ngọc điệp do Luy Tổ để lại, hình dạng giống với thẻ ngọc mà Hoàng Đế cất giữ ở núi Uyển Uỷ. Sau khi trị thuỷ thành công, chúng vẫn được lưu trữ ở đây. Sách "Tương Trung Ký" ghi chép: "núi Cẩu Lũ có ngọc điệp, Vũ chiểu theo những gì viết ở trên đó dùng để trị thuỷ". "Ngô Việt Xuân Thu" ghi chép: "Vũ leo lên Hành Sơn, sứ giả của sông Mộng Thương đưa tới một cuốn sách thẻ vàng chữ ngọc, Vũ đắc được điều cốt yếu của việc trị thủy, và khắc lên chỗ cao của núi đá.

Học giả hiện đại, tiên sinh Mã Hạ Sơn, sau hơn 20 năm miệt mài nghiên cứu về các ký tự thời nhà Hạ, đã giải mã được bản khắc của "Bia Cẩu Lũ", bản khắc như sau:

“Thừa đế trủng nhiên, dực phụ ung vệ. tai hàng thỉ phát, tự hoàn vãng hành. Tam hà phi dũng. Bắc quá ký nhi điện, tự nhược vong điểu. Túc nhạc lộc đình, sưởng dật dậu kỳ, thủy lư phất trường, vãng cầu vĩnh định. Hoa nhạc thái hành. sùng sở sự bầu, lao dư thần nhân, sưởng mạn cát tỷ. Nam độc diễn xương, y tắc thực bị, vạn bang giai ninh, cương vô dạng mãng.”

Giải thích "Cẩu Lũ bia":

"Thụ lệnh của hoàng đế ban cho quyền trợ giúp Thuấn đế trị lý sông Ung và sông Vệ. Lũ lụt ập đến, phát thệ lên đường, lao đi giữa sông Hằng sông Tự. Sông Ba bị lụt, phía Bắc đến Ký Châu để tỏ lòng thành kính với tổ tiên và Thần linh, mải miết trị thuỷ mà quên mất chim trời quê mình. Ngoài lúc trị thuỷ thường trú ở trên núi cao, dùng rượu cúng bái thiên địa, mong nước sông đừng tràn, nước đến trước nhà thì không dâng lên nữa, mong lũ lụt được bình ổn. Từ núi Hoa Nhạc đến núi Hằng Sơn đến núi Thái Sơn, Hành Sơn, ngưỡng mộ người tài trí có thể khai thông nước sông, từ đó lũ lụt giảm bớt, ngoài việc trị thuỷ bình thường, hương khói thờ thần linh, rượu thơm được dùng để thiết đãi các vị thần. Thần linh tỏ rõ: chuyển dời đại cát. Kênh mương ở phía Nam đã thông thuận, cây cối phong phú, ăn no mặc ấm, thiên hạ thái bình, từ biên cương đến Trung Nguyên sẽ không còn lũ lụt".

"Cẩu Lũ bia" ghi lại rằng Đại Vũ được lệnh của Đế Thuấn xuất phát từ Ký Châu,bôn ba bốn phương, thuận theo núi chặt cây cối, dẫn nước vào sông, đi qua nhà ba lần mà không vào. Sau 13 năm nỗ lực, lũ cuối cùng đã được kiểm soát. Nội dung của "Bia Cẩu Lũ" gần giống với ghi chép của "Vũ Cống", và rất phù hợp với nội dung lịch sử về việc trị thuỷ của Đại Vũ trong chương "Hạ Bản kỷ" của "Sử Ký".

Năm Hán Vũ Đế thứ 2 (127 TCN), Vũ Đế đã xây dựng điện Vũ Vương ở đây, và được hậu thế kế tục tu bổ. Vào năm Đồng Trị thứ 9 thời nhà Thanh (1878), nó được trùng tu thành miếu, có diện tích hơn 1.000 mét vuông.

Chữ khắc trên bia Cẩu Lũ đề cập đến việc cúng tế Thiên Địa Thần linh. Đại Vũ đến nơi nào trị thuỷ đều phải cúng tế Sơn Thần. Các vị Thần núi khác nhau thì tế phẩm cũng khác nhau. Điều này được trình bày chi tiết trong "Sơn Hải Kinh".

Dựng trụ sắt dưới sông Hắc

Tiếp theo trị thuỷ sông Hắc. Sông Hắc là phụ lưu lớn nhất ở thượng du sông Mân Giang, lượng nước rất lớn, dưới nước có nhiều giao long, thế nước hung dữ. Hóa ra dưới đáy nước có một cái huyệt đạo rất lớn dẫn thẳng ra Nam Hải, nơi giao long và nhiều loài động vật lớn khác ra vào. Thủy triều lên xuống cũng tương thông với sông Hắc khiến tình trạng lũ lụt trên sông Hắc càng thêm trầm trọng. Đại Vũ ra lệnh cho người dân trục xuất giao long và những quái vật khác ra Nam Hải thông qua huyệt đạo đó, vì giao long sợ sắt, nên đã dùng trăm vạn cân sắt đúc thành một cột sắt lớn và đặt ở dưới đáy sông Hắc chỗ huyệt đạo để chặn đường giao long và những con vật khác. Sau khi trụ sắt được đặt xuống, sông Hắc đã yên ắng.

Sau khi Lương Châu được trị thuỷ, núi Vấn (Dân) và núi Ba Trủng đều có thể trồng trọt được, các con đường trên Thái Sơn và Mông Sơn đã được sửa chữa tốt đẹp. Lúc này, công trình trị thuỷ về cơ bản đã hoàn tất, và cuối cùng sông sẽ được dẫn ra biển.

Vũ lại tuần tra tình huống thuỷ thổ ở các nước hải ngoại và có nhiều trải nghiệm kỳ lạ, trừ một số quái thú hại người, ở phương bắc tiêu trừ nữ bạt (gây ra hạn hán). Đến đây, việc trị lý thuỷ thổ ở cả trong và ngoài nước đã hoàn tất. Bá Ích đã ghi chép lại địa lý núi sông, thảo mộc, chim muông và dã thú, những phong tục kỳ lạ, những giai thoại mà ông trải qua khi đi theo Đại Vũ trị thuỷ, và vẽ cả tranh, trở thành tư liệu trọng yếu cho tác phẩm "Hải Sơn Kinh".

Theo “Sở Bạch Thư" ghi chép: Ngu Ly (Vũ và Khất) trị sửa Đại địa, “dĩ ti đổ nhưỡng" quy hoạch Cửu Châu, xử lý ổn thỏa hiện tượng hỗn loạn của Đại địa “núi gò không khơi thông”. "Sau đó khiến núi sông tứ hải, điều hòa trăm khí, để khai thông dòng chảy, khai mở núi gò, lấp đất những nơi đọng nước”.

Đó là nói Đại Vũ dùng khí âm dương của núi sông tứ hải để mở núi dẫn nước, giữa hồng thuỷ mang mang, đắp bịt san đất, sáng tạo ra Đại địa có trật tự có thể sinh sống. Lũ lụt bình ổn, vạn dân trong thiên hạ thảy đều có được đất đai để an cư lạc nghiệp.

“Thi Kinh” ca ngợi: “Hồng thuỷ mang mang, Vũ phô hạ thổ phương.” (Hồng thủy mênh mông, Vũ trị sửa thủy thổ tứ phương)

“Tả truyện” nói: “Mỹ tai Vũ công! Minh Đức viễn hí. Vi Vũ, ngô kỳ ngư hồ!” (Công lao của Vũ tốt đẹp thay! Đức tỏa sáng khắp nơi xa xôi. Nếu không có Vũ thì ta đã là cá rồi)

Sử ký cũng nói: “Đại Vũ bình hoạt thủy thổ, công tề thiên địa”. (Đại Vũ bình ổn thủy thổ, công sánh ngang Trời Đất)

Vũ có công trị thuỷ, được phong ở Hà Nam, quốc hiệu Hạ, được ban họ Tự thị.

Trị thuỷ thành công, Vũ báo cáo lên Nghiêu Đế và Thuấn Đế. Vũ tâu lên rằng: "Thiên hạ danh sơn, kinh ngũ thiên tam bách thất thập sơn, lục vạn tứ thiên ngũ thập lục lý, cư địa dã. ngôn kỳ ngũ tang, cái kỳ dư tiểu sơn thậm chúng, bất túc ký vân. Đại địa chi đông tây nhị vạn bát thiên lý, nam bắc nhị vạn lục thiên lý, xuất thủy chi sơn giả bát thiên lý, thụ thủy giả bát thiên lý, xuất đồng chi sơn tứ bách lục thập thất, xuất thiết chi sơn tam thiên lục bách cửu thập. Thử thiên địa chi sở phân nhưỡng thụ cốc dã, qua mâu chi sở phát dã, đao sát chi sở khởi dã, năng giả hữu dư, chuyết giả bất túc."

Dịch: Đại Vũ tấu lên: Có tổng cộng 5.370 danh sơn khắp thiên hạ, khoảng cách đường đi là 64.056 dặm (khoảng 32.028 km). Những danh sơn này được phân bố ở 5 vùng núi ở phía đông, tây, nam, bắc và trung. Bởi vậy, điều tra ghi chép chỉnh lý lại, định danh là "Ngũ tạng sơn kinh". Ngoài ra, khắp thiên hạ còn có rất nhiều ngọn núi lớn nhỏ khác nhau, không ghi chép chi tiết. Có 5.370 danh sơn khắp thiên hạ. Tuy nhiên, chỉ có 447 ngọn núi được ghi lại trong "Ngũ tạng sơn kinh". Nhiều ngọn núi đã được điều tra, nhưng chúng không được ghi lại trong 26 cuốn kinh về núi.

Đại địa (vùng đất nối liền ba châu lục châu Á, châu Phi và châu Âu) chạy từ đông sang tây, khoảng cách chim bay 28.000 dặm (từ núi Vô Cao ở điểm cực đông - ngày nay là dãy núi Ou cao 1.200 mét so với mực nước biển ở phía đông nam thành phố Morioka, Nhật Bản, đến điểm cực tây - ngày nay là cao nguyên Adrar Plateau cao 600 mét so với mực nước biển ở Mauritania thuộc khu vực phía tây châu Phi, khoảng cách chim bay là khoảng 14.000 km); từ nam đến bắc, khoảng cách chim bay là 26.000 dặm (từ điểm cực nam - này là dãy núi Drakensberg cao 3000 mét so với mực nước biển ở miền nam Nam Phi, đến núi Vô Phùng ở điểm cực Bắc - nay là dãy núi Belanga, cao hơn 200 mét so với mực nước biển ở miền bắc nước Nga, khoảng cách chim bay khoảng 13.000 km). Núi có sông suối chảy ra, khoảng cách chim bay là 8.000 dặm (khoảng 4.000 km), địa phương có sông chảy qua, khoảng cách chim bay 8.000 dặm (khoảng 4.000 km); núi có mỏ đồng có tổng cộng 467 núi, núi có mỏ sắt có tổng cộng 3.690 núi.

Đây là cơ sở cho việc trồng trọt canh tác, kiến lập quốc gia, phân chia lãnh thổ; cũng là nguyên nhân sinh ra "qua mâu" (vì tranh chấp lợi ích dẫn đến chiến tranh), cũng là căn nguyên "đao sát" (phát động chiến tranh). Do sự phân bố tài nguyên thiên nhiên và của cải vật chất không đồng đều, khiến bách tính trong thiên hạ phân hoá giàu nghèo. Vì vậy, người có tài cán luôn giàu có dư giả, người vụng về thì nghèo nàn thiếu thốn.

Qua đoạn văn tự này có thể thấy, trước trận đại hồng thủy, khắp thiên hạ có nhiều quốc gia và mật độ dân số rất cao. Vì đất canh tác có hạn, mỗi quốc gia đều vì lợi ích của mình mà phát động chiến tranh xâm lược để cướp đoạt lãnh thổ và tài nguyên của nước khác.

Vũ "sống ở ngoài mười ba năm", "đi qua nhà ba lần không vào", một mình làm việc vất vả, tay cầm công cụ, xung phong đi đầu, dãi gió dầm mưa, người trông tiều tuỵ, bắp đùi không còn bao nhiêu thịt, lông trên bắp chân đều sạch bóng. Bởi vì quanh năm suốt tháng ngâm mình trong nước, móng chân đều tróc ra hết. Đế Nghiêu rất cảm động, ban cho ông một đàn cầm khảm ngọc dao và một thanh bảo kiếm.

Đại Vũ trị thuỷ, "mở chín núi, thông chín hồ, khơi tháo chín sông, định ra chín châu", diện tích rộng lớn, công trình to lớn, trước nay chưa từng có. Phía tây từ sông Hắc đến cửa sông Trường Giang ở phía đông; phía Bắc từ Hà Bắc và Sơn Đông, phía nam đến trung du và hạ du sông Trường Giang, gần như bao hàm đại bộ phận lãnh thổ Trung Quốc. Từ sông Hắc đến cửa sông Trường Giang, khoảng cách đường chim bay là 2.600 km, đi bộ vẻn vẹn trong một tuần. Điều này là không thể vào thời điểm đó nếu không có sự trợ giúp của thần linh, chưa nói đến sự can nhiễu của nhiều loại yêu ma quái thú. Trong khi trị thuỷ nhận được sự trợ giúp của chúng Thần. Trải qua mười ba năm nỗ lực, khiến "nước lớn đổ về đông", đổ vào biển lớn, sự hùng vĩ của công trình đã chấn động cổ kim.

Thảm họa do trận Đại hồng thủy mang đến cho nhân loại là khủng khiếp, nhưng cũng để ba nhà thánh quân Nghiêu Thuấn Vũ khai sáng kỷ nguyên mới, đem liên minh lỏng lẻo của một vạn nước san sát nhau nhưng mạnh ai nấy làm, kiến lập thành một thiên hạ thống nhất vạn quốc, vạn bang, khai sáng tân vũ, mang đến cơ hội, cuối cùng xác lập một thiên hạ thống nhất với tên gọi Cửu châu.

Khắp chốn mừng vui

Sau khi trị thuỷ thành công, Đại Vũ dự định đích thân đến Côn Luân để báo cáo lên Thiên Đế, bái tạ Tây Vương Mẫu. Lúc này, Tây Vương Mẫu phái sứ giả tới đón tiếp Đại Vũ. Ở núi Côn Luân, Tây Vương Mẫu phụng lệnh Thiên Đế mở tiệc chiêu đãi Đại Vũ cùng chúng thần, chúng thần từng nhiều lần tham gia hiệp trợ Đại Vũ trị thuỷ, có thể nói là quần tiên đại hội tụ, cộng đồng chúc mừng trị thuỷ thành công. Tây Vương Mẫu nói, trị thuỷ đại thành công, là ý chỉ của Thiên Đế, bản thân cũng là phụng theo ý chỉ của Thiên Đế mà làm, là dựa vào uy lực vĩ đại của Thiên Đế. Từ đó về sau, trời trong, đất hòa, vũ trụ trên dưới, cùng hưởng phúc thái bình.

Vì để ca ngợi công lao trị thuỷ của Đại Vũ, Nghiêu Đế đã lệnh cho Thuấn tặng Vũ một miếng ngọc bích màu đen tượng trưng cho màu của nước để tuyên bố với thiên hạ trị thuỷ thành công. "Thượng thư - Vũ Cống" viết: "Vũ được ban ngọc khuê Nguyên, tuyên cáo thành công", Sớ viết: "Công lao trị thủy, đem lại lợi ích khắp bốn biển, đều là công của Vũ. Nguyên là màu của trời, trời gọi là Nguyên, do đó ngọc khuê sắc nguyên là để tỏ rõ công lao của Vũ. Thiên hạ từ đó Thái bình, yên định".

“Thần Châu” không chỉ là cách xưng hô một địa khu, mà còn có những yếu tố nội tại của nó, có nội hàm thâm hậu về hệ thống tư tưởng, văn hóa, đạo đức khác hẳn với những nơi khác. Nơi đây được mệnh danh là quê hương của các vị Thần, do các vị Thần tạo cho con người. Nơi đây có nền văn hóa Thần truyền; có quy phạm hành vi đạo đức Thần đặt định cho con người. "Trung Quốc" là trung tâm của thế giới, cũng là thể hiện sự an bài của Thần.

(Còn tiếp)

Lam Sơn
Theo: Nhóm nghiên cứu "Nhân vật anh hùng thiên cổ" - Epoch Times

Văn hoá Lịch sử


BÀI CHỌN LỌC

Nghiêu Thuấn Vũ (P- 7): Đại Vũ trị thuỷ sông Trường Giang