Đại Đạo trị quốc (Phần 14): Thuật của Pháp gia

Giúp NTDVN sửa lỗi

Muốn lý giải về nguồn gốc sự tà ác của Đảng Cộng Sản Trung Quốc, hãy tìm trong tư tưởng Pháp Gia

Xem lại:
Đại Đạo trị quốc (Phần 13): Pháp gia trị quốc
Đại Đạo trị quốc (Phần 15): Nguồn của Đạo đức

Như phần trước đã bàn, mục tiêu của Pháp gia là lấy nhân pháp thay cho Thiên Đạo, từ đó kiến lập một xã hội ma tính lấy người thay Trời. Mà việc đó nhất định phải dựa vào lực lượng của "Thế”, từ đó có được cường lực chấp hành, đồng thời làm nhân pháp trở thành chuẩn tắc duy nhất của thiên hạ, cho nên ắt phải làm tất cả quyền thế trong thiên hạ tập trung vào tay quân vương, hợp nhất quân vương và nhân pháp.

Hàn Phi nói: "Lấy cây gỗ dài một xích, đặt trên đỉnh núi cao, thì có thể cúi xuống thấy vực sâu ngàn trượng, đây không phải là do cây gỗ cao, mà do đặt nó ở vị trí cao. Vua Kiệt làm Thiên tử, có thể khống chế thiên hạ, chẳng phải do ông ta hiền năng, mà là do ông ta có quyền thế lớn. Vật nặng ngàn cân nhờ có thuyền nên nổi, nhưng vài đồng tiền nhẹ không có thuyền nên chìm xuống đáy, đó không phải do trọng lượng của vật, mà nguyên do là ở lực nâng. Cho nên vật thấp lùn có thể nhìn từ trên cao, là dựa vào vị trí đứng của nó; kẻ tiểu nhân có thế chế phục người hiền năng, là dựa vào quyền thế của nó.

Rồng bay trong mây, rắn lượn trong sương, là dựa vào cái thế của mây mù, nếu mây mù tiêu tan, thì rồng, rắn bay lượn kia có khác gì con giun đất. Khi vua Nghiêu còn là thường dân, quản lý chẳng nổi ba người; thế mà Hạ Kiệt sau khi lên Thiên tử, có thể làm loạn cả thiên hạ. Thế nên ta từ đó mà thấy rõ, việc trị lý quốc gia chỉ cần dựa vào quyền thế, chứ không cần dựa vào hiền đức và trí huệ.”

Phụ mẫu nuôi dưỡng con cái, mong chúng bình an thuận lợi, tránh xa tội lỗi. Nhưng quân chủ đối với chúng dân thì khác, khi nguy nan muốn hy sinh chiến đấu, lúc an bình thì ra sức cấy cày. Quân chủ đối với chúng dân không có lòng nhân ái, yêu cầu chúng dân dốc lực vì mình, quân vương hiểu rõ điều này, nên vứt bỏ nhân ái, gia tăng khốc hình nghiêm khắc.

Trăm họ đều bị quyền thế khuất phục, rất ít người được cảm hóa bởi nhân nghĩa.

Pháp gia là phản Đạo Đức, phản nhân tính, nó phải dựa vào cường quyền bạo lực, phải dựa vào thế lực mà đạt địa vị, đây là cơ sở và bảo chứng của Pháp gia. Pháp gia muốn nhân pháp và quân chủ hợp nhất, thành chuẩn tắc duy nhất của thiên hạ, để thay thế Thiên Đạo, cho nên quyền thế phải được tập trung trong tay quân chủ, không cho phép tồn tại kẻ thứ hai nắm quyền, nhằm bảo chứng nhân pháp là tuyệt đối và duy nhất.

Pháp gia là phản Đạo Đức, phản nhân tính, nó phải dựa vào cường quyền bạo lực, phải dựa vào thế lực mà đạt địa vị, đây là cơ sở và bảo chứng của Pháp gia. (Ảnh: tổng hợp)

Hàn Phi nói: “Đạo không tương đồng với thiên địa vạn vật khi sinh ra, có trọng lượng không như nhau, quân chủ không tương đồng với chúng thần. Đạo là độc nhất vô nhị, nên gọi là ‘Nhất’, quân chủ theo Đạo nên cũng phải là độc nhất vô nhị.

Phải luôn luôn kéo căng dây cung, đề phòng trong ổ xuất hiện con gà trống thứ hai, nếu không sẽ phải tranh đấu không ngừng. Quân chủ phải độc đoán chuyên quyền, thì mới lên được ngôi quân chủ.”

Vậy nó dựa vào thủ đoạn nào để tập trung toàn bộ quyền thế trong thiên hạ vào tay quân chủ?

Đầu tiên là thông qua trò chơi quyền thuật mà khống chế bề tôi, làm bề tôi tuyệt đối phục tùng.

Hàn Phi nói: “Làm quân chủ, cần phải thường như cắt tỉa cây mà chỉnh trị bề tôi, không để cành lá phát triển đến xum xuê. Cành lá xum xuê, sẽ che khuất phủ quan, nhà riêng đầy của cải, công khố sẽ rỗng không, quân chủ sẽ bị che mắt. Thường cắt tỉa, làm cho cành không mọc dài, cành mà mọc dài, sẽ đe dọa địa vị quân chủ. Thường chặt cành cắt lá, không để cành to gốc nhỏ, cành to mà gốc nhỏ thì chịu không nổi trận gió Xuân, sẽ tổn hại đến tận lõi của cây.”

Lại nói: “Quân chủ không cần hiển lộ nguyện vọng và ý đồ, vì sau khi lộ ra, thì bề tôi sẽ có biện pháp giấu giếm, ngụy trang, sẽ không thấy được bộ mặt thật của họ. Quân chủ không thể hiện yêu ghét của mình, thì bề tôi mới triển hiện thực chất. Cho nên, quân chủ có trí huệ cũng không cần dùng để suy xét, cứ mặc vạn vật tự tìm về vị trí thực của mình; có năng lực cũng không làm, để quan sát năng lực của bề tôi; có dũng cũng không thể hiện ra, để bề tôi phát huy đầy đủ võ dũng của họ. Do vậy, quân chủ không sử dụng trí huệ mà vẫn tỏ tường, không phát huy năng lực mà vẫn có công trạng, không biểu hiện dũng lực mà vẫn có vũ lực cường đại… cho nên mới nói, việc gì quân chủ cũng không thể hiện ra, giống như mình không ở vị trí quân chủ, quân chủ thần bí khôn lường, bề tôi không thể nhìn thấu. Quân chủ ở trên chẳng biểu hiện gì, nhưng quần thần bên dưới tim đập chân run.

Thiên Đạo ẩn tàng không thể hiện, nếu như quân chủ thần bí khó lường, làm thuộc hạ không dò ra được, thì cũng giống Thiên Đạo cao vợi bên trên. Quân chủ không thể hiện bất kể thứ gì, thì mới có thể trong ám muội mà quan sát lỗi lầm của bề tôi. Mới thấy được cái nhìn ngoài không thấy, nghe được điều lúc thường không nghe, biết rõ mà làm như không biết. Quân chủ sau khi biết rõ ngôn luận chủ trương của bề tôi, không chỉnh sửa họ, dùng chính hành vi của họ để quan sát đánh giá, mỗi chức quan chỉ có một người, chỉ cần không cho họ tương thông, thì tất cả sự tình đều bộc lộ hết. Quân chủ che đậy hành vi, ẩn giấu ý đồ, bề tôi không thể dò ra; Không hiển thị trí huệ, không bộc lộ tài năng, khiến bề tôi không thể dự đoán được.

Khi quân chủ nghe ngôn luận chủ trương, nên giống như kẻ say rượu, mơ mơ hồ hồ. Để quần thần bàn tán, ta không mở miệng trước, quần thần càng say sưa bàn luận, ta càng làm như mơ hồ, làm cho họ tự tranh luận với nhau, phân tích mổ xẻ, ta từ đó mà nhìn rõ, hiểu rõ họ…

Quân chủ nếu biểu hiện ra yêu ghét của mình, có thể khơi ra oán hận. Cho nên cần ẩn tàng yêu ghét, không biểu hiện bất kể gì ra bên ngoài. Quân chủ không cùng làm việc với thần dân, thì thần dân mới tôn kính quân chủ; quân chủ không bàn nghị sự với thần dân, để họ tự làm. Quân chủ đóng cửa chặt, ngồi trong nhà quan sát bên ngoài, tất cả gần trong gang tấc, đều ở trước mắt. Cần thưởng thì thưởng, cần phạt thì phạt, căn cứ vào hành vi của họ mà xử trí tương ứng. Nếu quân chủ không thể thần bí khó lường, thì thuộc hạ có thể mượn cớ lợi dụng.”

Hàn Phi để quân chủ cố ý biểu hiện thần bí khó lường, mục đích là đẩy quân chủ lên đài cao của Thần, để thay thế "Trời”, sau đó thông qua nhân pháp mà hợp nhất, làm nhân pháp cuối cùng thay thế Thiên Đạo.

Hàn Phi nói: “Quân chủ anh minh dùng thủ đoạn khống chế thuộc hạ, không ngoài hai loại này. Hai loại thủ đoạn này là "Hình"và "Đức”. Thế nào là Hình, Đức? Quyền lực giết chóc trừng phạt gọi là "Hình”, quyền lực ban thưởng gọi là"Đức”. Bề tôi đều sợ trừng phạt mà tham thụ thưởng, cho nên quân chủ chỉ cần nắm vững hai thủ đoạn này, thì khống chế chắc được thuộc hạ. Nhưng gian thần có thể lợi dụng quyền lực trong tay quân chủ để sát phạt những người không ưa, và ban thưởng cho kẻ cùng phe phái. Như vậy, đại quyền thi hành Hình, Đức sẽ rơi vào tay bề tôi, chúng dân sẽ sợ bề tôi mà coi thường quân chủ, sẽ quy thuộc bề tôi mà xa rời quân chủ. Đây là tai họa do quân chủ mất đi đại quyền thi hành hình đức.

Như nay quân chủ ở thế chế ước thiên hạ, bao quát toàn bộ quốc gia, nắm hai đại quyền trọng thưởng, nghiêm phạt, chỉ cần dựa chút thủ đoạn pháp luật, thì cho dù loạn thần như Điền Thường, Tử Hãn cũng không dám không thành thực, hà tất phải đi tìm người thành thực, không lừa dối?”

Như nay quân chủ ở thế chế ước thiên hạ, bao quát toàn bộ quốc gia, nắm hai đại quyền trọng thưởng, nghiêm phạt, chỉ cần dựa chút thủ đoạn pháp luật, thì cho dù loạn thần như Điền Thường, Tử Hãn cũng không dám không thành thực (Ảnh: tổng hợp)

Phần trên đã bàn, “dục vọng" và “sợ hãi" là khuyết hãm lớn nhất của nhân tính, Hàn Phi để quân chủ thông qua "Hình phạt" và "Ban thưởng" hai thủ đoạn lớn này thao khống nhân tính, khống chế hoàn toàn thần dân, biến thiên hạ bách tính thành con rối mà tùy ý thao khống.

Nhưng Đạo Đức lại là khắc tinh của nhân tính khuyết hãm, chỉ cần nhân loại vẫn kiên thủ Đạo Đức trong tâm, thì sẽ khắc chế hai loại khuyết hãm này, kiên thủ Thiên Đạo làm hạch tâm, không lấy nhân pháp làm tiêu chuẩn, không làm con rối để pháp gia thao khống. Do đó, pháp gia trước tiên phải hủy đi Đạo Đức của nhân loại.

Hàn Phi nói: “Như Dự Nhượng, Bá Di, Thúc Tề đạo đức hiền nhân vậy, không sợ khốc hình, chẳng màng lợi ích, những hình phạt chẳng thể chế ước họ, ban thưởng cũng không dẫn dụ nổi họ. Người như vậy là người vô dụng. Là người mà ta coi khinh vứt bỏ, nhưng lại là người mà quân chủ đương thời ca tụng tìm cầu.

Như Hứa Do, Tục Nha, Tấn Bá Dương, Tần Điên Hiệt, Vệ Kiều Như, Hồ Bất Kê, Trọng Minh, Đổng Bất Thức, Biện Tùy, Vụ Quang, Bá Di, Thúc Tề, mười hai người này đều là thấy lợi bất động tâm, lâm nguy không sợ hãi. Có cho cả thiên hạ họ cũng chẳng màng, không vì năm đấu gạo mà khom lưng.

Người thấy lợi chẳng màng, quân chủ ban thưởng hậu hĩnh, cũng không động tâm; Người lâm nguy không sợ hãi, dù quân chủ dùng khốc hình, cũng không khuất phục nổi. Đây là những người mà quốc gia không cách nào quản chế… Người như vậy, thánh vương cổ đại đều không thần phục được họ, thời thế ngày nay, cần họ làm gì?

Quan Long Phùng, Tỉ Can, Lý Lương, Tiết Trị, Thân Tư, Ngũ Tử Tư, sáu người này, đều dựa vào tranh biện hoặc cực lực can gián quân vương… vứt bỏ sinh mệnh mà can gián, cho dù cửa nhà tan nát, đao chặt ngang thân, cũng không hề sợ hãi. Bề tôi như vậy, cổ đại thánh vương đều không dung nhẫn nổi, thời thế bây giờ, sao có thể dùng họ đây?”

Hàn Phi còn nói: “Thiết lập danh hiệu, bản chất là dùng để biểu thị sự tôn quý, mà nay có kẻ coi thường danh vị và quyền thế, thế nhân tán dương họ là cao thượng.

Thiết lập danh vị đẳng cấp, thực ra là dùng để phân ra quý tiện, nhưng lại ngạo mạn không cầu tước vị, thế nhân lại xưng tụng là hiền minh. Uy nhiếp và lợi dụ thực chất là dùng để thi hành mệnh lệnh, nhưng đối với những người coi thường những thứ đó, thế tục lại ngợi ca trang trọng. Pháp lệnh là dùng trị lý quốc gia, nhưng đối với những người không tuân tòng pháp lệnh mà chỉ theo ý mình, thế tục lại xưng tán họ trung thành. Quan tước là dùng để khuyến khích chúng dân, nhưng đối với những người truy cầu danh dự mà chẳng muốn làm quan, thế nhân lại ca ngợi họ là tiết khí… Dân chúng đối với truy cầu thanh danh còn coi trọng hơn là truy cầu lợi ích, như vậy, những nhân sĩ đó, cho dù lâm cảnh cơ hàn cực khổ, thà ẩn cư thâm sơn mà giữ được tiếng thơm. Điều đó đều là do quân chủ đã mất đi nguyên tắc trị quốc, mà tạo thành nguyên nhân không thể trị lý thiên hạ.

Không tiếp thu lời của quân chủ, được gọi là chính trực. Không nhận ban thưởng của quân chủ, được gọi là thanh liêm. Không nghe mệnh lệnh, được gọi là dũng cảm. Thanh tâm quả dục, khoan dung nhân ái, hành thiện thi đức, được xưng tụng là nhân nghĩa. Tự lập ra học phái, được gọi là thầy trò đồng Đạo. Nhàn tĩnh an cư được gọi là người có tư tưởng… thần dân bị nhiễm những phong cách này tới một mức nào đó thì bên trong sẽ loạn dân chúng, bên ngoài thì bất lợi cho quốc gia.”

Hàn Phi còn nói: “Người thiên hạ đều cho là cách làm của vua Nghiêu, Thuấn là đúng mà học theo, do vậy mới sinh ra giết quân chủ, ngỗ nghịch phụ mẫu. Nghiêu, Thuấn, Thương, Vũ, đã vi phạm chuẩn tắc quân thần, nhiễu loạn giáo hóa của hậu thế.

Nghiêu tự cho là thánh minh, nhưng ông lại cho thần dân của mình là Thuấn làm Hoàng Đế; Thuấn tự cho là hiền đức, nhưng ông ta lại tiếp nhận vị trí quân chủ. Thương Thang, Chu Vũ Vương tự cho là nhân nghĩa, nhưng lại giết quân chủ của mình. Đây là do những người tự cho là anh minh quân chủ thường giao phó quyền lực của mình, là nguyên nhân mà những bề tôi tự cho là hiền năng thường chiếm đoạt quyền lực. Cho nên dẫn đến nay, con trai chiếm đoạt gia tài của cha mẹ, bề tôi chiếm đoạt chính quyền của quân chủ. Cha mẹ đem gia nghiệp truyền lại cho con, quân chủ đem chính quyền nhượng cấp cho thần dân, đây tuyệt không phải là biện pháp dùng để giáo hóa danh vị trong thiên hạ.”

Hàn Phi đem vua Nghiêu, Thuấn chí công vô tư mà nhường thiên hạ, nói thành làm loạn Đạo quân thần; mang Thương Thang lật đổ Hạ Kiệt bạo tàn, Chu Vũ lật đổ Thương Trụ vô Đạo, nói thành phản loạn bề trên, loạn thần tặc tử, loạn thiên hạ giáo hóa. Ông ta cho là quân chủ vô luận hoang dâm vô đạo như thế nào, cho dù có giết sạch thiên hạ bách tính, thần dân cũng tuyệt không thể phản loạn, phải chấp nhận ngang trái, cam chịu bị hại. Đây chính là đưa quân chủ thành tiêu chuẩn tuyệt đối, dùng người thay thế Trời, từ đó hủy đi tín ngưỡng của bách tính đối với Thiên Địa Thần Linh, để nhân pháp thay cho Thiên Đạo, đạt mục đích hủy diệt xã hội nhân loại.

Vua Thuấn từ khi còn nhỏ dù bị người thân đối xử tệ bạc, nhưng vẫn một lòng tận hiếu. (Ảnh: Miền công cộng)

Hàn Phi nói: “Thuấn bất nhân bất nghĩa bất trung bất hiếu, lưu đày cha mẹ, sát hại em trai, hạ quân chủ xuống làm bề tôi, đối đãi với mẹ như người hầu, với con gái quân chủ như vợ.’

Ở đây, trừ việc vua Nghiêu gả hai con gái cho Thuấn ra, còn lại đều là Hàn Phi điên đảo trắng đen, bịa đặt vu hãm. Bề dày đen tối của ĐCSTQ có lẽ cũng bắt nguồn từ đây.

Từ những điều trên có thể thấy rõ, Hàn Phi thông qua nhận thức cực đoan, cường điệu chỗ cô lập phiến diện, để đạt mục đích làm điên đảo trắng đen, lẫn lộn thị phi, để phá hoại Đạo Đức quan của nhân loại, hủy đi điểm cân bằng Đạo Đức - lấy Thiên Đạo làm hạch tâm của nhân loại, từ đó mang nhân pháp kiến lập thành điểm cân bằng mới, trở thành tiêu chuẩn thị phi thiện ác mới, nhằm thay thế Thiên Đạo.

Hàn Phi nói: “Thầy thuốc thạo việc hút máu mủ ở vết thương người bệnh, miệng ngậm máu tanh, không phải do tình thân cốt nhục, mà là do lợi ích mà làm. Thợ xe chế tạo xe tốt, hy vọng người ta phú quý có tiền mà mua; thợ đóng quan tài xong, hy vọng có người nhanh chết. Chẳng phải do thợ xe nhân từ, thợ hòm độc ác, mà là người ta không phú quý, xe bán cho ai; người khác không chết, ai mua quan tài.”

Hàn Phi gọt bỏ tất cả những nhân tố Đạo Đức, còn lại trong mắt ông ta chỉ là lợi dục. Thầy thuốc hút vết thương, miệng vương máu bẩn, nếu không có tác dụng của Đạo Đức, của Y Đức, ai dám làm vậy? Hãy nhìn vào bệnh viện ở Trung Quốc ngày nay thì biết.

Pháp gia hợp nhất nhân pháp và quân vương, đẩy quân chủ lên vị trí của Thần, có quyền thế tuyệt đối quản chế tất cả, để thay thế Thiên Đạo. Cần biết rõ, quân chủ là người, không phải là Thần, nhân pháp là do người chế định, tuyệt không phải là chân lý khách quan. Quân vương có thể do tư dục mà tùy ý cải biến nhân pháp, có thể tùy ý biến bách tính thành vật nuôi, đem nhân gian biến thành Địa Ngục.

Vứt bỏ Đạo Đức xong, Pháp gia thông qua khống chế hoàn toàn dục vọng và sợ hãi của nhân loại mà khống chế chắc từng cá nhân, làm nhân pháp thay thế hoàn toàn Đạo Đức.

Hàn Phi nói: “Giả sử người ta không ăn không mặc mà không đói không lạnh, cũng không sợ chết, thì sẽ không phục tùng nguyện vọng của quân chủ. Tư tưởng dục vọng không chịu khống chế của quân chủ, quân chủ không có cách nào sai khiến họ được nữa.

Lợi dục lớn nhất của bề tôi là có được phú quý, bề tôi ôm mục đích này mà làm việc, có thể mạo hiểm, vứt bỏ sinh mệnh, dốc toàn sức lực, chết không oán trách. Đây gọi là quân chủ không giảng nhân ái, bề tôi chẳng nói trung thành, mà có thể xưng bá thiên hạ được.”

Trong hai thủ đoạn lớn mà Pháp gia dùng để khống chế thiên hạ, thì tạo ra sợ hãi là thủ đoạn quan trọng nhất.

Hàn Phi nói: “Thi hành nhân nghĩa, ái hộ bách tính đều không dùng được, chỉ có nghiêm hình khốc pháp mới có thể trị quốc.

Nghiêm hình khốc pháp là thứ bách tính chán ghét, nhưng lại có thể trị lý tốt quốc gia; thương xót con dân, dùng hình pháp khoan dung, là thứ bách tính yêu thích, nhưng có thể làm quốc gia đại loạn.

Pháp luật của Công Tôn Ưởng là hình phạt nặng cho tội nhẹ. Tội nặng không dễ phạm, nhưng lỗi nhỏ lại dễ rơi vào. Để người ta rơi vào những lỗi dễ mắc, mà không vướng vào trọng tội, đây là nguyên tắc trị quốc tốt.

Thi hành hình phạt đối với bách tính, không phải là ghét họ, mà là yêu họ. Hình phạt nặng, bách tính mới an định; ban thưởng nhiều, kẻ gian càng lắm. Cho nên, hình phạt nặng là việc lớn đầu tiên để trị lý bách tính; ban thưởng nhiều, là cái gốc của họa loạn.

Nhân pháp, là gốc của quân vương; hình phạt, là ngọn nguồn của yêu mến.

Áp dụng khốc hình, giảm thiểu ban thưởng, là yêu thương của quân chủ đối với thần dân, thần dân sẽ liều chết lập công lĩnh thưởng. Ban thưởng nhiều, mà hình phạt nhẹ, là quân chủ không yêu mến thần dân, thần dân sẽ không liều mạng lập công cầu thưởng.”

Hàn Phi nói: “Yêu bách tính bao nhiêu, thì hình phạt nặng bấy nhiêu. Càng tàn bạo thì càng thể hiện yêu thương bách tính. Tư duy này giống như con sói ác nói với bầy cừu: "Sở dĩ ta ăn các con, nhai các con, là vì ta quá yêu thương các con mà thôi.”

“Yêu bách tính bao nhiêu, thì hình phạt nặng bấy nhiêu. Càng tàn bạo thì càng thể hiện yêu thương bách tính. Tư duy này giống như con sói ác nói với bầy cừu: Sở dĩ ta ăn các con, nhai các con, là vì ta quá yêu thương các con mà thôi.” (Ảnh: tổng hợp)

Sau khi nhân pháp có đủ năng lực thao khống hoàn toàn con người, pháp gia vẫn tiếp tục đem nhân pháp tiến tiếp, làm thiên hạ bách tính thời thời khắc khắc bị khống chế trong nhân pháp, không nơi nào thoát.

Hàn Phi nói: “Kẻ gian trong tình huống sẽ bị phát hiện, thì mới sợ; ở tình huống sẽ bị trừng phạt, mới không dám phạm tội. Ở tình huống không bị phát giác, kẻ gian dễ làm càn; ở tình huống không bị trừng phạt, nó sẽ hoành hành.

Để vật tầm thường ở nơi vắng vẻ, thì cho dù bậc đạo đức cao thượng như Tăng Sâm, Sử Thù cũng động ý lấy trộm; Mang vàng trăm lượng đặt chỗ phồn hoa, cho dù đạo tặc nổi danh cũng không dám động lấy.

Do vậy, minh quân trị lý quốc gia, cần đặt nhiều tai mắt, phạt nặng tội phạm, làm dân chúng sợ pháp lệnh mà bị ước thúc, không dựa vào liêm khiết phẩm đức để ngăn chặn tội ác.”

Tăng Sâm và Sử Thù là kẻ sĩ nổi danh đức độ thời cổ đại, thường được coi là tấm gương đạo đức. Hàn Phi thông qua bịa đặt vu cáo, nói rằng nếu không bị nhân pháp trông chừng, thì Tăng Sâm, Sử Thù cũng thành kẻ trộm, từ đó triệt để phủ định Đạo Đức, đồng thời thay xà đổi cột, lấy nhân pháp thay thế Đạo Đức, để đạt mục đích lấy nhân pháp thời thời khắc khắc giám chế bách tính. Quân chủ không phải là Thần, nhân pháp không là Thiên Đạo, vậy làm thế nào để nhân pháp có thể giám thị bách tính mọi nơi mọi lúc?

Hàn Phi nói: “Đối với tội phạm ẩn trốn thì phạt nặng, đối với kẻ tố giác tội phạm thì trọng thưởng, như vậy tai mắt có thể bố trí khắp thiên hạ. Quốc gia trị lý tốt, giỏi việc ngăn chặn gian loạn, không để thành nguy cấp. Để chặn đứng những hành vi gian loạn mà không dễ bị phát giác, thì dùng cách nào? Mấu chốt ở chỗ phải làm cho bách tính giám thị lẫn nhau. Nhưng làm thế nào để chúng dân giám thị lẫn nhau?

Đại để là, thi hành chính sách liên đới, một nhà phạm tội, thì 5 hoặc 10 nhà xung quanh chịu liên đới thẩm tra. Như vậy, người xung quanh do sợ liên lụy đến mình mà bắt buộc phải giám sát lẫn nhau. Nhờ đó mà dân chúng với mình thì thận trọng, với người thì dò xét, từ đây sẽ có cáo mật (tố giác). Người tố giác sẽ được thưởng, miễn hình phạt, người không chịu tố giác sẽ liên đới mà bị tội. Cứ vậy mà làm, kẻ gian sẽ đều bị phát giác, đến hành vi gian loạn nhỏ cũng không thể phát sinh, đều do tác dụng của việc tố giác mật và thi hành liên đới mà nên.”

Trung cộng làm đấu tranh giai cấp, cường điệu lập trường giai cấp, để duy trì đảng tính, lệnh con cái tố cáo cha mẹ, thậm chí ra tay đánh chết cha mẹ; học sinh tố cáo, phê đấu thầy cô; vợ chồng người yêu, cũng phát sinh tố cáo mật; thậm chí một nhà chia thành nhiều phe phái, ngày ngày soi mói cáo mật, làm nhân tính mất đi, táng tận lương tâm, đây cũng là từ học thuyết Pháp gia mà ra. Pháp gia lấy nhân pháp thay cho Thiên Đạo, Trung cộng dùng đảng tính thay cho nhân tính. Đạt tới độ nhân pháp thâm nhập vào cuộc sống của từng cá nhân, giám thị bách tính thời thời khắc khắc, sau đó chúng tùy ý lừa bịp, nô dịch bách tính, nhưng trước khi lừa bịp, phải tiến hành tẩy não, làm cho họ trở thành cỗ máy, không có tư tưởng, không có trí lực. Để đạt mục đích này, thì phải hủy bỏ tất cả các tư tưởng học thuyết, những thứ có thể thức tỉnh tư tưởng của bách tính, làm bách tính có thể suy xét độc lập, phục hồi nhân tính.

Hàn Phi nói: “Như Khổng Tử, Mặc Tử, tri thức uyên bác, cơ trí thiện biện, nhưng họ chẳng làm việc canh tác, làm được điều gì tốt cho quốc gia đây? Như Tăng Sâm, Sử Bào, vừa hiếu thuận lại thanh tâm quả dục, nhưng họ lại không tham gia chiến trận, quốc gia có lợi ích gì chứ?

Như nay chỉ cần giỏi văn chương học thuật, biết nói thuyết, là chẳng cần lao khổ canh tác mà thu hoạch tài phú, không mạo hiểm đánh trận mà vẫn có quan tước, thế thì có ai mà không muốn?

Kết quả là có cả trăm người hoạt động trí óc, mà chỉ có một người dùng sức lực canh trồng, đánh trận, kẻ dùng trí óc nhiều lên, thì pháp trị quốc gia sẽ thất bại, người tận lực canh trồng, đánh trận ít, quốc gia sẽ trở nên bần cùng. Đây là nguyên nhân làm xã hội hỗn loạn.

Do vậy, trong quốc gia của minh quân, phải phế trừ tất cả học thuật văn hóa, văn hiến điển tịch, chỉ lưu lại pháp luật làm tài liệu giáo hóa; cấm tiệt cổ Thánh tiên Vương ngôn luận, chỉ lấy quan lại chấp pháp đương thời làm thầy.

Thần dân thường ca tụng đạo đức của các bậc cổ Thánh tiên Vương mà tâm sinh chí hướng, phỉ báng quân chủ đương kim.”

Dưới mô hình của Pháp gia, quốc gia chỉ có thể có hai loại người: Một loại chuyên canh trồng khổ lực, loại thứ hai chuyên đánh trận. Trừ hai loại này ra, tất cả những người còn lại là sâu mọt của xã hội.

Pháp gia muốn phế trừ tất cả tư tưởng học thuyết cùng học thuật văn hóa của nhân loại, đốt sạch văn hiến điển tịch, chỉ để lại sách pháp luật làm tài liệu giảng dạy. Như thế, tinh thần của nhân loại sẽ trở nên cực độ nghèo nàn, triệt để mất đi tư tưởng, mất đi năng lực phán đoán, như vậy mới dễ dàng lừa bịp cùng nô dịch.

Trung Cộng từ lúc thành lập chính quyền đến kết thúc Cách mạng Văn hóa, đại sát văn nhân học giả, đốt sách, phá tứ cựu, hủy hoại văn hóa Trung Hoa, chỉ lưu lại Mác-Lê thư tịch cùng kịch bản làm giáo trình, làm cho cuộc sống tinh thần của người Trung Quốc cực kỳ nghèo nàn, tư tưởng cực độ vô tri, từ đó đạt mục đích ngu hóa và nô dịch quốc dân, dùng toàn thủ đoạn của Pháp gia. Làm người ta giống như vật nuôi, cỗ máy cơ khí, không có tư tưởng, không có Đạo Đức, không có nhân tính, không có tín ngưỡng, đây là loại xã hội gì? Hồi tưởng lại Cách mạng Văn hóa, đến tận bây giờ vẫn làm nhiều người sợ, không rét mà run.

Trung Quốc trong thời Đại Cách mạng Văn hóa. Khi hồi tưởng lại, đến tận bây giờ vẫn làm nhiều người sợ, không rét mà run.

Pháp gia đã được kiến lập từ hơn hai ngàn năm trước, đều bị lịch sử phê phán, ngay cả Tần Thủy Hoàng vào thời điểm phi thường cũng không toàn diện áp dụng, chỉ có Trung Cộng là đầu tiên toàn diện thực thi.

Sau khi bách tính bị tẩy não hoàn toàn, tiếp đến là giống như cách đối đãi với súc vật, mà tùy ý nô dịch. Đối với nô dịch bách tính như thế nào, có Thương Ưởng, ông ta biến bách tính thành nô lệ canh trồng và cỗ máy chiến đấu.

Thương Ưởng nói: “Lễ nhạc, thi thư, thiện lương hiếu đễ, thành tín trinh khiêm, nhân nghĩa, hòa bình là sáu đại họa của quốc gia, giống như ký sinh trùng, gọi là "Lục sắt" (sáu con rệp).

Nhân dân bần cùng thì sẽ cố gắng để giàu, giàu rồi thì sẽ phóng túng, phóng túng sẽ sinh ra họa hại “sáu rệp" kia. Do vậy, nhân dân giàu có rồi thì sẽ không dễ nô dịch họ, cần đặt ra luật pháp làm cho họ giao lương thực ra, làm cho họ phải lao lực, thì nông dân mới không lười nhác. Nông dân không lười biếng, thì “sáu rệp" không thể sinh ra.

Nông dân dư thừa lương thực, thế là an dật hưởng lạc. Thương nhân kiếm được lợi lớn, sẽ buôn bán những đồ sang trọng, hoa lệ, sẽ ảnh hưởng không tốt đến những thứ đồ thiết yếu hàng ngày.

Những đồ mà bách tính muốn có được là vô cùng nhiều, nhưng chỉ có một kênh duy nhất để đến lấy, làm cho bách tính nếu không thông qua kênh này thì sẽ không có được thứ mong muốn. Như vậy, sẽ khống chế toàn bộ bách tính trong tay, khống chế được toàn bộ lực lượng của bách tính trong tay, quốc gia sẽ cường thịnh.

Bách tính bần cùng, quốc gia sẽ yếu nhược; Bách tính giàu có, thì sẽ phóng túng hưởng lạc, mà phóng túng hưởng lạc sẽ sinh ra "sáu rệp”, quốc gia cũng thành yếu nhược. Do vậy, đối với dân nghèo, cần dùng hình phạt bức bách họ nỗ lực cần lao, mà thành giàu. Đối với kẻ đã giàu, cần đặt ra luật lệ đem tiền của họ biến thành tiền của quốc gia,

Như vậy họ sẽ biến thành nghèo. Bí kíp trị quốc, trước tiên để kẻ bần cùng biến thành giàu có, sau đó lại mang họ trở về bần cùng.”

Trước tiên làm nghèo biến thành giàu, sau khi họ giàu rồi, thì quốc gia phải nghĩ cách "hợp lý" để lấy tiền tài của họ, làm cho họ lại rơi vào bần cùng. Như vậy mới có thể lại kích phát động lực làm giàu của bách tính, để họ vì sinh tồn mà cả đời chật vật, chẳng còn tinh lực mà suy nghĩ, hưởng thụ, quốc gia cũng không có "Rệp" nữa. Phương thức trị quốc này làm quốc gia giàu có, bách tính bần cùng, cộng sản đảng lấy hết những tinh hoa thông qua các thủ đoạn "hợp lý”, đem tiền tài của bách tính đổ vào túi của nó, tham quan mặc sức vơ vét. Làm bách tính cả đời trâu ngựa, cuối cùng tay trắng hoàn trắng tay.

Thương Ưởng nói: “Quốc gia bần cùng mà phát động chiến tranh, thì có thể mang họa hại chuyển sang quân địch, quốc gia sẽ không bị họa hại "Sáu rệp”, nhất định sẽ cường thịnh. Quốc gia phú cường mà không đánh trận, sẽ làm bách tính tham sống, quốc gia sẽ sinh ra họa hại “sáu rệp”, nhất định sẽ suy yếu.”

Về điểm này, ĐCSTQ vừa học vừa dùng. Ví dụ: đánh Việt Nam là để tự vệ, lợi dụng chiến tranh để chuyển dời mâu thuẫn nội tại.

Thương Ưởng nói: “Bách tính dũng mãnh, thì thuận theo dục vọng của họ mà trọng thưởng; bách tính khiếp nhược, thì thuận theo sợ hãi của họ mà gia tăng hình phạt uy hiếp họ. Như vậy, kẻ khiếp nhược do sợ khốc hình mà thành dũng cảm, kẻ dũng cảm do trọng thưởng mà quên mình. Kẻ khiếp nhược biến thành dũng cảm rồi, kẻ dũng cảm trở nên quên mình đánh trận rồi, thì quốc gia sẽ thành vô địch, xưng vương.

Nếu bách tính cam chịu cơ hàn mà chết, chứ không tranh đoạt vì lợi lộc, thì quốc gia sẽ tiêu vong.

Dân chúng thấy đánh trận, như sói đói thấy thịt, vậy quốc gia sẽ cường thịnh. Nhìn chung, chiến tranh là thứ dân chúng chán ghét, có thể làm dân chúng thích chiến tranh, thì quân chủ sẽ xưng vương thiên hạ.

Dân chúng của quốc gia cường thịnh, cha tiễn con nhập ngũ, anh tiễn em, vợ tiễn chồng nhập ngũ, họ đều nói: "Không lấy được đầu giặc không về!", còn nói thêm: “Không tuân thủ pháp luật, kháng lệnh, anh chết, chúng tôi cũng chết, thôn xã sẽ trị tội chúng tôi, quân đội không nơi mà trốn, phải chạy về nhà, chúng ta muốn rời nhà cũng không có chỗ mà rời đi.”, cách quản lý của quân đội là 5 người thành một đội, thực hành liên đới. Dùng phù hiệu phân loại họ, dùng quân lệnh ràng buộc họ. Có đào tẩu cũng không có chỗ cư trú, thất bại thì không thể sinh tồn. Cho nên ba quân tướng sĩ không có một ai không tuân lệnh, liều chết đánh trận mà không dám lùi.”

Thương Ưởng còn nói: “Chính sách nếu là thứ bách tính chán ghét, tức là bách tính yếu nhược; chính sách nếu là thứ bách tính vui mừng, tức là bách tính cường thịnh. Bách tính nhược thì quốc gia cường, bách tính cường thì quốc gia nhược.”

Pháp gia thạo việc đẩy bách tính về phía đối lập, đem họ biến thành công cụ nô dịch và cỗ máy chiến đấu vô nhân tính.

Thương Ưởng nói: “Phải làm dân khuất nhục thì mới biết tôn quý của đại nhân; phải ti tiện nhũn nhặn, như vậy mới hiểu được sự lợi hại của kẻ làm quan. Phải bần cùng thì mới có thể vì trọng thưởng mà bán sinh mệnh. Nhân dân mà có địa vị thì sẽ coi thường quan tước; giàu có rồi sẽ coi thường ban thưởng.

Dùng người thiện trị lý bách tính, bách tính sẽ thân cận ủng hộ người thân của họ, dùng kẻ gian trị lý bách tính, bách tính sẽ thân cận chế độ của quốc gia. Làm dân chúng đoàn kết lại thì sẽ che giấu giúp đỡ nhau, đây là cái gọi là thiện; làm dân chúng chia rẽ, giám sát lẫn nhau, đây gọi là gian.

Biểu dương người thiện, chúng dân có lỗi sẽ dấu diếm; dùng kẻ gian, người có tội sẽ bị phát giác.

Tội phạm bị che giấu, tức bách tính thắng pháp luật; phạm tội bị phát giác, tức pháp luật thắng bách tính.

Bách tính thắng pháp luật, quốc gia sẽ đại loạn; pháp luật thắng bách tính, quốc gia sẽ cường thịnh. Vậy mới nói, dùng lương dân trị quốc, quốc gia nhất định sẽ hỗn loạn suy yếu; dùng gian dân trị quốc, quốc gia sẽ đại trị mà cường thịnh.”

ĐCSTQ kế thừa mô hình này. Có người ví nó như cỗ máy nghiền nhân tính, nói cách khác, chỉ có những người Đạo Đức bại hoại nhất mới có thể sinh sống trong thể chế của Trung Cộng, phàm là còn Đạo Đức lương tri, đều bị các cuộc vận động chính trị, quyền lực đấu tranh bóp chết và đào thải, cuối cùng còn lại cơ bản là những đảng đồ, mang đầy đủ “đảng tính”, "nhân tính" bị chôn vùi, nhân cách vỡ nát.

Hàn Phi nói: “Tần quốc gặp nạn đói nghiêm trọng, tể tướng Phạm Thư thỉnh cầu: ‘Vườn thượng uyển hoàng gia, nhiều thảo mộc thực vật, rau, quả, táo, hạt dẻ, đủ để nuôi bách tính, xin ngài mang ra cứu tế’. Tần Chiêu Vương (pháp gia) nói: ‘Pháp lệnh Tần quốc của chúng ta, là làm bách tính có công mới có thưởng, phạm tội bị phạt. Bây giờ nếu mở vườn thượng uyển, để cho bách tính vô luận có công hay không đều tới lĩnh thưởng, cách này làm quốc gia hỗn loạn. Cứu tế bách tính mà làm quốc gia hỗn loạn, chi bằng mang tất dưa quả rau vứt đi mà quốc gia lại thái bình’. Nói cách khác là: Nếu mở vườn thượng uyển, sẽ cứu sống bách tính, nhưng dẫn đến kẻ có công, người vô công tranh đoạt lẫn nhau. Để chúng sống mà quốc gia hỗn loạn, chi bằng để chúng chết mà quốc gia an định!”

Đến đây, bất giác làm người ta nhớ lại ĐCSTQ trong cái gọi là "Ba năm tai họa tự nhiên”. Kỳ thực ba năm đó mưa gió thuận hòa, căn bản là không có tai họa tự nhiên, hoàn toàn là nhân họa do ĐCSTQ tạo thành. Toàn quốc xuất hiện nạn đói nghiêm trọng, từ 1958 đến 1959, chính phủ ĐCSTQ vẫn xuất khẩu chi viện một lượng lớn lương thực cho Liên Xô và các quốc gia xã hội chủ nghĩa Đông Âu. Ví dụ năm 1959, số lượng lương thực xuất khẩu đạt mức cao nhất trong lịch sử, đạt 415.75 vạn tấn. Cướp lương thực của bách tính đem cho ngoại quốc, mà không cho bách tính đang chết đói, dẫn đến trong ba năm chết đói mấy triệu người Trung Quốc, nơi đâu cũng có hiện tượng người ăn thịt người!

Cuối cùng, dùng một câu trong "Đạo Đức kinh" của Lão Tử làm đoạn kết: “Dân bất úy tử, nại hà dĩ tử cụ chi” (Tạm dịch: Dân không sợ chết, đem chết ra dọa họ được sao?). Khi nhân dân không sợ kẻ thống trị, thì đại họa loạn đang đến. Không bức bách sự an cư của nhân dân, không chặn đường mưu sinh của bách tính, chỉ có không áp bức nhân dân, thì nhân dân mới không chán ghét kẻ thống trị.

Theo Lý Đạo Chân - Visiontimes
Thái Bình biên dịch



BÀI CHỌN LỌC

Đại Đạo trị quốc (Phần 14): Thuật của Pháp gia