Ấu học Quỳnh Lâm - Bài 25: Dương Hỗ nho nhã khi mặc áo cừu nhẹ, thắt lưng rộng 

Giúp NTDVN sửa lỗi

Khổng Tử nói: “Sĩ chí ư đạo nhi sỉ ố y ố thực giả, vị túc dữ nghị dã”, nghĩa là: Kẻ sĩ lập chí cầu Đạo, nhưng lại xấu hổ vì mặc áo vải, ăn uống giản dị, thì không đáng nói chuyện chính Đạo với anh ta.

Nguyên văn chữ Hán

緩帶輕裘,羊叔子乃斯文主將;葛巾野服,陶淵明真陸地神仙。

Hán Việt

Hoãn đái khinh cừu, Dương Thúc Tử nãi tư văn chủ tướng; cát cân dã phục, Đào Uyên Minh chân lục địa Thần Tiên

Bính âm

Huǎn dài qīng qiú, yáng shūzi nǎi sīwén zhǔjiàng; gé jīn yě fú, táoyuānmíng zhēn lùdì shénxiān.

Giải thích từ ngữ

(1)缓带 Hoãn đái: y phục nhẹ nhàng, phóng khoáng, đai lưng thắt rộng.
(2)轻裘 Khinh cừu: Áo khoác da nhẹ. Nhẹ, đơn giản tiện lợi. Áo bằng da hay lông
(3)羊叔子 Dương Thúc Tử: tức Dương Hỗ, tự Thúc Tử. Người thời Tây Tấn, một vị quan thanh liêm tiết kiệm.
(4)斯文 Tư văn: chỉ phong thái nhà Nho
(5)葛巾 Cát cân: khăn đội đầu bằng vải sắn, còn gọi là cát bố. Cát, một loại thực vật dây leo là sắn, vỏ thân dùng dệt vải.
(6)野服 Dã phục: quần áo thô sơ, dân dã
(7)陶渊明 Đào Uyên Minh: tức Đào Tiềm. Những người thời Đông Tấn không chịu khom lưng vì năm đấu gạo, từ quan quy ẩn.

Bài dịch tham khảo

Dương Hỗ không thích mặc quân phục, ngay cả khi chỉ huy đại quân vẫn mặc quần áo da nhẹ, thắt lưng rộng thoải mái nên mọi người gọi ông là chủ tướng văn nhã. Đào Uyên Minh từ quan quy ẩn, đội khăn vải sắn, mặc áo vải thô nông phu, phong thái an nhiên tự tại như một vị Thần tiên trên mặt đất.

Đọc sách bút đàm

Trong bài học này, đại tướng quân Dương Hỗ, khai quốc công thần nhà Tây Tấn và Đào Uyên Minh, nhà thơ nổi tiếng thời Đông Tấn, đều được lấy làm mẫu mực để giảng về ý chí cao thượng trong sạch của họ, không bị công danh lợi lộc trói buộc mà phải dao động tiết tháo đức hạnh bản thân. Trong bài trước đó, chúng ta khuyến khích con trẻ học tập các đế vương cổ đại về cách tiết kiệm dưỡng đức. Nhưng lần này là đề cử hai vị nho gia xuất thân danh môn. Họ là những hình tượng đại biểu hoàn hảo cho các trí thức thời cổ đại, với phong thái nho nhã và tài đức vẹn toàn.

Dương Hỗ xuất thân trong danh môn sĩ tộc thời Hán Ngụy, tổ tiên đều làm quan. Mẫu thân họ Sái là con của đại danh nho nhà Hán là Sái Ung, gia phong liêm khiết, nổi tiếng khắp nơi về đức độ. Đến đời Dương Hỗ, đức hạnh của ông so với tổ tiên lại càng tốt đẹp hơn. Có người Thái Nguyên là Quách Dịch, sau khi gặp ông đã khen rằng: “Đây quả là Nhan Hồi thời nay vậy”. Có thể sánh vai với đệ tử giỏi nhất, sống đạm bạc và lấy khổ làm vui của Khổng Tử là Nhan Hồi, cho thấy sự nhân đức của ông đã nổi tiếng trong thiên hạ.

Tranh vẽ Dương Hỗ
Tranh vẽ Dương Hỗ (phạm vi công cộng)

Thậm chí đến cả danh tướng đương thời của Đông Ngô là Lục Kháng (của địch quốc Đông Ngô) cũng rất kính trọng ông. Cả hai đều là chủ tướng của quân đội tại Kinh Châu. Có lần Lục Kháng bị bệnh còn xin Dương Hỗ thuốc uống. Ông ta tin rằng Dương Hỗ là người quân tử, sẽ không nhân đó mà hạ độc, bất chấp lời khuyên của thuộc hạ mà cứ thế uống thuốc của Dương Hỗ cho. Vì cách trị dân của Dương Hỗ khoan hậu và trọng nhân nghĩa nên đã cảm hóa đa phần dân chúng ở đó, nên nhiều tướng sĩ địch cũng quy hàng ông. Lục Kháng không vì điều này mà ghen tức hay hận thù mà còn cảm phục ông hơn, tự bản thân cảm thấy nên cư xử trọng tín nghĩa hơn nữa.

Dương Hỗ xử thế nhân đức, không phải dùng nó như một thủ đoạn mua danh, mà là để hiểu thâm sâu hơn về cái đạo giáo hóa của Nho học. [Đạo của người quân tử] làm mọi việc chỉ lo phù hợp nhân nghĩa, không lo cái lợi hại được mất của bản thân. Ví dụ, trong 10 năm niên hiệu Chính Thủy, Tư Mã Ý đã phát động cuộc đảo chính (sự biến lăng Cao Bình) lật đổ tập đoàn Tào Sảng, rất nhiều người có liên quan đến Tào Sảng đều bị liên lụy. Và bố vợ Hạ Hầu Bá của Dương Hỗ là một trong số đó. Cha vợ của ông đã đầu hàng Thục Hán để thoát khỏi cuộc giết chóc. Họ hàng của bố vợ ông sợ liên lụy, phần lớn cắt đứt quan hệ với gia đình đó. Chỉ có Dương Hỗ là không sợ hãi, vẫn an ủi gia đình, thông cảm với người thân, còn gần gũi đối đãi tốt hơn lúc trước. Vì là người có lễ nghĩa, và khoan dung nhẫn nhịn, không cậy công mà kiêu ngạo, đối xử công bình với người khác, có tấm lòng rộng mở, không màng danh lợi được mất và không bao giờ tạo lập tài sản cho con cháu. Vì vậy, cả vua và tướng địch đều rất kính trọng và tin tưởng ông.

Dương Hỗ mất cha từ năm 12 tuổi, ông hiếu thảo và để tang nhiều hơn bình thường. Ông đối với chú Dương Đam cũng vô cùng cung kính hiếu thuận. Khi mẹ và anh cả của ông lần lượt qua đời, Dương Hỗ từ chối khi được gọi làm quan. Ông phục tang thủ lễ hơn 10 năm. Trong 10 năm đó, Dương Hỗ sống thanh đạm như một nhà Nho.

Có thể thấy rằng ông đã ngộ được giáo dưỡng căn bản của Nho học, là lấy Hiếu làm căn bản cho Đạo làm người. Do đó mới có thể dùng tài hoa của bản thân mà có được sự kính ngưỡng của hậu thế. Công danh cũng vô cầu mà tự đắc.

Học thức uyên bác, cử chỉ nho nhã, nói năng hùng biện, văn võ toàn tài. Dường như những tài năng bên ngoài mà con người thế gian xem trọng đều hoàn hảo mà tập trung hết trên người ông, làm cho người đời vô cùng ngưỡng mộ khí độ nho nhã của ông. Kỳ thực khí chất, tài trí đó của ông là kết quả có được từ một thân chính khí chủ đạo, dưỡng thành từ việc học tập đạo hiếu, đức liêm khiết, chính trực, sống theo nhân nghĩa mà ra.

Về nhân cách của Đào Uyên Minh thì mọi người đã quen thuộc rồi nên ở đây sẽ không nói thêm.

Kể chuyện

Thân làm tể tướng, thanh liêm và giản dị, tiết kiệm

Trương Kiệm, vào năm thứ 14 niên hiệu Thống Hòa đời Liêu Thánh Tông, được tiến cử lần đầu. Tính tình ông đoan chính thành thực, sinh hoạt tiết kiệm, quần áo mặc vải thô, ăn uống chỉ cần đủ no, không cần màu sắc và hương vị. Vào một ngày mùa đông nọ, tiết trời rất lạnh, ông ấy đứng bên điện tấu trình, Hưng Tông thấy ông ấy mặc bộ triều phục rất cũ kỹ, bèn bí mật lệnh cho thị vệ bên cạnh, lặng lẽ dùng kẹp lửa để đánh dấu các lỗ vá trên quần áo của ông ấy. Một năm bốn mùa, Trương Kiệm lần nào lên triều cũng mặc đúng bộ triều phục cũ đó mà không hề thay mới. Hưng Tông vô cùng cảm động, hỏi Trương Kiệm nguyên nhân. Trương Kiệm tâu rằng: “Thần đã mặc bộ bào phục này 30 năm, và bây giờ thần vẫn còn có thể mặc nó, vậy tại sao phải thay nó với một cái mới?” Xã hội vào thời đó người ta hay sống xa hoa mà không biết tiết kiệm. Trương Kiệm làm tể tướng hơn 20 năm mà vẫn thanh liêm, tiết kiệm giản dị, lấy thân làm gương. Xã hội phong khí vì vậy mà cải thiện hơn.

Tư Mã Quang, danh thần thời Tống, là người ngay thẳng chính trực và cũng chủ trương tiết kiệm giản dị. Trong áng văn “Huấn kiệm thị khang” ông khuyên con trai mình là Tư Mã Khang kế thừa truyền thống thanh bạch của gia đình. Ông ấy tin rằng tiết kiệm là mỹ đức, đừng thay đổi nó vì những lời chế giễu của người khác. Trong tác phẩm đó, Tư Mã Quang đã trích dẫn nhiều điển cố xưa về việc “lập công danh nhờ tiết kiệm” trong lịch sử, ví dụ như Quý Văn Tử của nước Lỗ thời Xuân Thu làm tể tướng trải ba đời vua, mà thê thiếp của ông ta không mặc vải lụa, ngựa không ăn ngô.

Tranh vẽ Tư Mã Quang thời Bắc Tống
Tranh vẽ Tư Mã Quang thời Bắc Tống

Còn có Trương Văn Tiết thời Tống Nhân Tông, tuy thân là tể tướng, bổng lộc không ít nhưng vẫn sống rất kiệm ước. Mặc cho người ta chế nhạo, ông vẫn không quan tâm. Bạn bè thân hay khuyên ông cũng nên sống theo thói đời một chút, ông thở dài nói rằng: “Với bổng lộc mới của ta, có thể khiến cho toàn gia ăn mặc sung sướng, vì sao lại không làm như thế? Chỉ là người ta từ việc sống kiệm ước thành xa hoa thì rất dễ dàng, mà từ xa hoa quay lại kiệm ước thì vô cùng khó vậy. Bổng lộc hiện tại của ta có vĩnh viễn được như vậy hay không? Tính mệnh có trường thọ lâu dài khỏe mạnh không? Vạn nhất có biến hóa gì xảy đến, toàn gia đã quen sống xa hoa, không thể lập tức trở lại tiết kiệm, chắc chắn sẽ mất đi chỗ dựa về vật chất. Còn về việc dù ta có là quan chức hay không, dù còn sống hay đã chết thì cuộc sống của gia đình ta chẳng phải vẫn luôn như vậy hay sao?”

Tư Mã Quang đã dùng những câu chuyện về những vị danh thần hiền tướng này để dạy con trai mình “kiệm tố vi tu đức đích cơ sở” (tiết kiệm là nền tảng của tu dưỡng đạo đức), không chỉ tự mình thực hành, mà còn để cảnh tỉnh cho các thế hệ mai sau để họ biết phong tục của tiền nhân và truyền chúng từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Khổng Tử nói: “Dĩ ước thất chi giả tiễn hĩ!” (Người luôn ước thúc bản thân mà phạm lỗi thì rất hiếm). Ông lại nói: “Sĩ chí ư đạo nhi sỉ ố y ố thực giả, vị túc dữ nghị dã” (Kẻ sĩ lập chí vì đạo nhân mà cảm thấy xấu hổ vì ăn đói mặc rách, chưa thể cùng bàn luận về đạo nhân được).

Câu trên nghĩa là “Hiếm thấy người sống kiệm ước lại”. “Một thư sinh lập chí cầu Đạo, nhưng lại xấu hổ vì mặc áo vải, ăn uống giản dị, thì không đáng nói chuyện chính Đạo với anh ta”. Có thể thấy rằng, nếu chỉ giỏi văn chương và tài trí thì chưa phải là nhà Nho chân chính. Một nhà Nho chân chính phải giống như các nhân vật trong truyện, có thể an bần lạc đạo. Một khi đã là quan chức, người ta dễ dàng sử dụng tài năng của mình để mưu cầu quyền lực mà quên đi chí hướng căn bản của nhà Nho là phục vụ nhân dân và khuông phù (phò tá) chính nghĩa một cách quên mình. Vì vậy việc không ngừng truyền lại những câu chuyện đức hạnh của tiền nhân để giáo dục hậu nhân là quan trọng nhất.

Minh Bảo
Theo The Epoch Times



BÀI CÙNG CHUYÊN ĐỀ

BÀI CHỌN LỌC

Ấu học Quỳnh Lâm - Bài 25: Dương Hỗ nho nhã khi mặc áo cừu nhẹ, thắt lưng rộng