Ấu Học Quỳnh Lâm - Bài 21: Chu Văn Vương nhân từ với cả xương khô vô chủ

Giúp NTDVN sửa lỗi

Hàng nghìn năm qua, mỗi khi thế đạo hỗn loạn, hoàng đế hồ đồ mê muội, người dân sẽ nghĩ đến xã hội lý tưởng dưới thời trị vì của Chu Văn Vương, người người nhường nhịn nhau theo nghi lễ, bách tính nhường địa giới đất canh tác, quan viên nhường quan vị, ai ai cũng trọng đức, người dân thật thà tốt bụng, không nhặt của rơi trên đường.

(Xem lại Bài 1; Bài 2; Bài 3; Bài 4; Bài 5; Bài 6; Bài 7; Bài 8; Bài 9; Bài 10; Bài 11; Bài 12; Bài 13; Bài 14; Bài 15; Bài 16; Bài 17; Bài 18; Bài 19; Bài 20;)

Nguyên văn chữ Hán

澤及枯骨,西伯之深仁;灼艾分痛,宋祖之友愛。

Hán Việt

Trạch cập khô cốt, Tây Bá chi thâm nhân; chước ngải phân thống, Tống Tổ chi hữu ái.

Bính âm

Zé jí kūgǔ, xībó zhī shēn rén; zhuó ài fēn tòng, sòngzǔzhī yǒu'ài.

Giải thích từ ngữ

(1) 澤 Trạch: Ân đức.
(2) 及 Cập: Đến.
(3) 西伯 Tây Bá: Chu Văn Vương, họ Cơ, tên Xương, thời Thương Trụ được phong là Tây Bá, sau khi Vũ Vương phạt Trụ nắm được thiên hạ trong tay, truy tôn ông là Văn Vương.
(4) 深 Thâm: sâu, ở đây mang nghĩa khoan hồng, trung thực.
(5) 灼 Chước: đốt cháy.
(6) 艾 Ngải: Cây ngải cứu.
(7) 宋祖 Tống Tổ: Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dận.

Dịch nghĩa

Chu Văn Vương là một người có tâm huyết, nhân từ và độ lượng, ngay cả bộ xương khô cũng nhận được ân đức của ông; Tống Thái Tổ hết mực yêu thương em trai mình, ngay khi em trai đốt ngải cứu để trị bệnh, ông cũng muốn chia sẻ đau đớn ấy.

Đọc sách bút đàm

Bài học hôm nay rất đơn giản, nói về điển cố của hai vị quân vương. Một là Chu Văn Vương, người sáng lập nhà Chu, ông là người yêu dân như con. Một lần, ông nhìn thấy xương người chết khô vô chủ liền nói với các quan lại rằng, bản thân là vương của một nước, trị vì thần dân bên dưới, vô luận là ai, đều là con dân của ta, ta đương nhiên là chủ nhân của những bộ xương khô không có người nhận và chôn cất này, chăm sóc họ là trách nhiệm của ta. Câu chuyện này là hình tượng sống động dạy bảo cho các đế vương đời sau, vì trách nhiệm của đế vương là phải chăm lo tốt cho bách tính, bởi bản thân là cha của một nước và là chủ của muôn dân.

Chu Văn Vương

Ngoài ra còn có Tống Thái Tổ, người khai quốc của triều đại nhà Tống, là một hoàng đế hết mực yêu thương em trai mình. Cũng chính là nói, một người coi trọng việc lấy đức trị sửa, còn người kia coi trọng đạo hiếu trong gia đình. Cả hai đều là quân vương, là tấm gương sáng cho dân chúng. Trẻ em từ nhỏ học được những điển cố này, không chỉ là học tri thức, mà còn hiểu được trách nhiệm của một vị quân vương là gì, quyền vị càng cao thì trách nhiệm càng lớn. Điều học được là làm người nhân từ. Đây là trọng điểm của nền giáo dục thời xưa.

Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dận

Chu Văn Vương: yêu dân như con, chư hầu quy thuận

Trọng điểm của chúng ta hôm nay là nói một chút về Chu Văn Vương, là bậc Thánh vương lý tưởng trong tư tưởng của Khổng Tử. Văn Vương diễn dịch “Chu Dịch”, sáng lập Chu lễ, nhân đức tiết kiệm, chiêu hiền đãi sĩ, thương dân như con, là mẫu hình của các đế vương qua các thời đại. Hàng nghìn năm qua, mỗi khi thế đạo hỗn loạn, hoàng đế hồ đồ mê muội, người dân sẽ nghĩ đến xã hội lý tưởng dưới thời trị vì của Chu Văn Vương, người người nhường nhịn nhau theo nghi lễ, bách tính nhường địa giới đất canh tác, quan viên nhường quan vị, ai ai cũng trọng đức, người dân thật thà tốt bụng, không nhặt của rơi trên đường.

Có tham chiếu, con người sẽ quay về đúng quỹ đạo, vì vậy năm ấy Văn Vương đã lưu lại nền tảng văn hóa trong lễ nghi chi bang. Vì vậy “Luận Ngữ” của Nho gia có nói: “Cẩn thận việc tang lễ, tưởng nhớ tổ tiên, thì đức của dân tự sẽ đôn hậu” (Thận chung truy viễn, nhân đức quy hậu), chính là nói phải vĩnh viễn tưởng nhớ và làm theo tinh thần của hoàng đế và tổ tiên, như vậy mới có thể khiến mọi người có chỗ đối chiếu, biết thế làm sao để quay về con đường chính đạo, quay về với nhân từ và trung hậu.

Bức tranh “Thả câu bên bờ sông Vị” của Đới Tiến (1388 – 1462), Bảo tàng quốc lập Cố Cung Đài Loan. Mô tả câu chuyện về Chu Văn Vương đến thăm Khương Thái Công, một vị ẩn sĩ đang thả câu bên bờ sông Vị, và mời ông ấy vào triều đình phò trợ.

Chu Văn Vương, tên thật là Cơ Xương (1152 TCN - 1056 TCN), họ Cơ, tên Xương, người nước Chu ở núi Kỳ Sơn (nay là Kỳ Sơn, Thiểm Tây). Cha ông là Tây Bá Hầu trong Thương triều, sau khi cha mất, ông được kế thừa chức vị Tây Bá Hầu từ cha mình, vì vậy ông còn được gọi là Tây Bá Xương.

Ông từng bị Trụ Vương giam cầm, ông là người suy diễn ra Chu Dịch; sau khi về nước thì phân đất phong hầu, phong Khương Tử Nha làm tướng. Vì ông nhân từ nên được lòng muôn dân, chư hầu cũng lần lượt quy thuận, đặt nền tảng cho sự kết thúc cuối cùng của sự cai trị tàn bạo của Trụ Vương. Đã lưu lại rất nhiều điển cố được truyền tụng qua các thời đại.

Thương xót bách tính, xả đất cứu người

Thương Trụ Vương phát minh ra cực hình tàn khốc gọi là Bào lạc, phạm nhân sẽ đi trên một ống đồng được bôi đầy dầu, trượt chân sẽ rơi xuống hố lửa bên dưới, lập tức thịt da cháy khét, chết một cách oan uổng. Nhưng sủng phi Đát Kỷ nhìn thấy cảnh tượng bi thảm này lại cười không ngớt, cho nên Trụ Vương càng cao hứng, cho rằng mình đã chiếm được nụ cười của Đát Kỉ. Cơ Xương cảm thấy cực kỳ bất nhẫn, chư hầu và bách tính cũng rất thống hận, nghiến răng nghiến lợi mà phẫn nộ trong tâm. Vì vậy Cơ Xương bày tỏ với Trụ Vương rằng ông sẵn sàng dâng một mảnh đất ở bờ Tây sông Lạc Hà (Hoàng Hà) của Chu quốc, để đổi lấy việc bãi bỏ hình phạt Bào lạc. Trụ Vương đồng ý yêu cầu của Tây Bá, và bãi bỏ hình phạt này, còn Cơ Xương nhận được sự yêu quý và kính trọng của bách tính trong thiên hạ.

Giải quyết tranh chấp cho các chư hầu

“Sử Ký - Chu bản kỷ” ghi chép, có một cuộc tranh chấp giữa hai nước chư hầu là Ngu quốc và Nhuế quốc, cứ náo loạn mãi không dứt, họ bèn muốn thỉnh Cơ Xương phân xử. Khi đến lãnh thổ Chu quốc, nhìn thấy người nước Chu khiêm nhường và nhường nhịn lẫn nhau, người lớn hay trẻ nhỏ đều cư xử lễ tiết, nên cảm thấy rất xấu hổ, nói rằng: “Ta thì tranh, người Chu thì biết hổ thẹn, đi chi nữa, chỉ chuốc lấy nhục thôi.” Cuối cùng họ lịch thiệp nhường cho nhau rồi rời đi. Khi các chư hầu nghe được chuyện này, sau đó hễ là mâu thuẫn hay tranh chấp thì đều tìm đến Cơ Xương phân xét.

Chu Văn Vương tên thật là Cơ Xương, còn được gọi là “Tây Bá”, ông vâng theo di phong của tổ tiên, lấy nhân đức trị quốc, thiện đãi bách tính, yêu dân như con, thần dân đều kính Trời và tuân thủ quốc pháp.

Lúc này, Cơ Xương còn là một chư hầu, nhưng ông trị vì và cai quản đất nước của mình như một vị quân tử, sau khi hai nước chư hầu có mâu thuẫn với nhau nhìn thấy điều này, thì không cần khuyên giải, bản thân liền cảm thấy rất hổ thẹn, ngừng tranh chấp, trở nên nhường nhịn lẫn nhau, và chủ động hòa giải. Đây là kết quả của việc trên làm gương dưới noi theo, nếu bản thân Văn Vương làm không đến nơi đến chốn, thì bách tính sẽ không trở nên nhân hậu như vậy, vì vậy ông đã trở thành mẫu hình đạo đức cho các chư hầu trong thiên hạ. Việc Tây Bá Xương chấm dứt được cuộc tranh kiện giữa hai nước Ngu và Nhuế cũng trở thành một sự kiện mang tính tiêu chí, người dân nước Chu gọi đây là năm đầu tiên Tây Bá Xương nhận lệnh. Các chư hầu đều lần lượt ủng hộ Tây Bá Xương lên làm vua, đặt hy vọng và phó thác cho ông kết thúc sự thống trị của Trụ Vương, đây là điều mà mọi người mong mỏi, cũng là thiên mệnh được giao phó.

Tống Thái Tổ, huynh đệ tình thâm

Tống Thái Tổ “chước ngải phân thống” (đốt ngải giảm đau) đã trở thành một thành ngữ, ví von với tình cảm anh em yêu thương nhau.

Từ “Tống Sử - Thái Tổ kỷ” ghi chép: “Thái Tông thường bệnh nguy cấp, hoàng đế nhìn thấy, vì người thân mà chước ngải. Thái Tông đau đớn, hoàng đế lấy ngải tự nướng” (Thái Tông thường bệnh cấp, đế vãng thị chi, thân vi chước ngải. Thái Tông giác thống, đế diệc thủ ngải tự cứu).

Chú thích: Theo Đông y, chước ngải là một hình thức đốt ngải vào huyệt để chữa bệnh.

Đại ý là, vào thời Bắc Tống, Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dận có người em trai là Triệu Khuông Nghĩa bị ốm nặng. Tống Thái Tổ đến thăm em trai và đích thân đốt ngải trị bệnh cho em mình. Lúc này, Triệu Khuông Nghĩa cảm thấy rất đau đớn và kêu la. Vì vậy, Thái Tổ lấy ngải nóng đốt trên thân mình, quả thật rất đau, ý là muốn chia sẻ nỗi đau với em trai, điều này khiến Triệu Khuông Nghĩa rất cảm động.

“Tranh thúc cúc” của Hoàng Thận (Thúc cúc - là một trò chơi đá bóng thời cổ đại). Bức tranh vẽ cảnh Tống Thái Tổ chơi thúc cúc với Tống Thái Tông, Triệu Phổ và các đại thần.

Kể chuyện

Ân trạch với hài cốt

Khi Châu Văn Vương vẫn còn là một quốc quân chư hầu, được phong là Tây Bá, ông đã cho xây một linh đài (đài mộ) cách 30 dặm về phía Đông của huyện Hộ, ngày nay là Thiểm Tây, dưới đài có vườn cây và ao cảnh. Trong khi đào ao, phát hiện nhiều bộ xương khô, quan lại chủ quản lập tức báo với Văn Vương. Văn Vương sinh lòng xót thương, ra lệnh cho vị quan chủ quản chôn cất những bộ xương này

Vị quan bẩm: “Những bộ hài cốt này chết rất lâu rồi, không có con cháu, đã không có ai quan tâm đến những bộ xương khô ấy nữa.”

Văn Vương nói: “Người nắm giữ thiên hạ, chính là chủ nhân của thiên hạ; người nắm giữ một bang quốc, chính là chủ của bang quốc. Những bộ xương khô này ở trong bang quốc của ta, vậy ta chính là chủ nhân của họ, nên lo liệu cho họ vậy.”

Nói xong, ông hạ lệnh cho thuộc hạ chuẩn bị áo quan để chôn cất lại những hài cốt này.

Đương thời, người dân nghe thấy hành động thiện của Văn Vương, thì đều nói: “Văn Vương quả thật là bậc hiền đức! Ngay cả bộ xương khô cũng được ban ân đức, huống chi là người?”

Văn Vương thi hành nhân nghĩa, vì vậy mà quy phục được lòng dân trong thiên hạ.

Huy Hải
Theo The Epoch Times



BÀI CÙNG CHUYÊN ĐỀ

BÀI CHỌN LỌC

Ấu Học Quỳnh Lâm - Bài 21: Chu Văn Vương nhân từ với cả xương khô vô chủ