Vào ngày 4/2, theo dữ liệu ban đầu được công bố cho thấy, vaccine COVID-19 của AstraZeneca có thể hiệu quả chống lại biến thể B117, biến thể virus Vũ Hán tại Anh...
Biến thể B117, sau khi xuất hiện lần đầu vào tháng 11/2020 ở Vương quốc Anh, đã trở thành nỗi lo sợ không chỉ ở quốc đảo này mà còn ở khắp nơi trên thế giới. Biến thể này được đánh giá có năng lây lan nhanh hơn 70% so với biến thể thông thường, thời gian ủ bệnh ngắn, có thể lây qua đường không khí.
Hiện nay, biến thể Vương quốc Anh có thể là nguyên nhân lây lan COVID-19 trong đợt bùng dịch mới cho hơn 12 tỉnh thành tại Việt Nam, khiến cho hơn 420 trường hợp nhiễm bệnh và hàng ngàn người khác liên lụy do bị cách ly, bị phong tỏa, bị hạn chế và ảnh hưởng đến cuộc sống của nhiều gia đình.
Mối lo lắng này có thể phần nào giảm bớt khi GS Andrew Pollard - chuyên gia về nhiễm trùng và miễn dịch ở trẻ em, đồng thời là điều tra viên chính của thử nghiệm vaccine Oxford - cho biết:
“Dữ liệu từ các thử nghiệm về vaccine của AstraZeneca, vaccine ChAdOx1 cho thấy, nó không chỉ giúp chống lại SARS-CoV-2 thông thường mà còn bảo vệ cơ thể trước cả biến thể mới, B117.”
Vaccine AstraZeneca và hiệu quả chống lại biến thế B117
Vaccine AstraZeneca là một trong những vaccine sử dụng virus vector - thông qua sử dụng virus cảm lạnh thông thường (adenovirus) trên tinh tinh đã được gây đột biến để hướng dẫn các tế bào cơ thể chống lại virus COVID-19. Từ đó, vaccine này sẽ kích hoạt phản ứng miễn dịch trên người.
Theo một nghiên cứu chưa được bình duyệt về vaccine AstraZeneca cho thấy, nó có thể giúp 74,6% người tiêm ngừa chống lại biến thể B117. Đồng thời, tỉ lệ này còn cao hơn đối với những biến thể khác không phải B117 (84%).
Tuy nhiên: “hiệu quả tổng thể của vaccine này chống lại biến thể B117 trong tất cả các trường hợp bao gồm có triệu chứng, không có triệu chứng hoặc không rõ là 66,5%”.
Các nhà nghiên cứu cũng cho biết, vaccine AstraZeneca “làm giảm thời gian nguy cơ và tải lượng virus”.
Ngoài ra, đây có thể là nghiên cứu đầu tiên về hiệu quả của vaccine chống lại các biến thể của virus có đưa ra ngưỡng chu kỳ của xét nghiệm PCR dùng để chẩn đoán COVID-19.
Giá trị ngưỡng chu kỳ là số chu kỳ cần thiết để máy xét nghiệm phát hiện vật chất di truyền của virus, cung cấp thông tin về việc một người có lây nhiễm hay không. “Giá trị ngưỡng chu kỳ (Ct) thấp có liên quan đến tải lượng virus cao hơn, có nghĩa là cá nhân dễ lây nhiễm hơn”.
Ban đầu, nghiên cứu đã thu thập hơn 1.500 mẫu phết họng hoặc mũi từ 499 người tham gia có kết quả xét nghiệm dương tính với COVID-19. Nhưng trong đó, chỉ 323 mẫu có thể được giải trình tự gen từ 256 người. Một trong những lý do khiến số lượng mẫu được giải trình tự ít hơn là do các phòng thí nghiệm không giải trình tự gen ở các mẫu có ngưỡng chu kỳ cao.
“Các mẫu có giá trị Ct cao (> 30) không được giải trình tự thường quy bởi một số phòng thí nghiệm COG Vương quốc Anh. Do đó, hạn chế khả năng của chúng tôi trong việc đánh giá nguồn gốc của các mẫu có tải lượng virus thấp, được biểu hiện quá mức ở những người tham gia không có triệu chứng.” các nhà nghiên cứu nêu rõ.
Mặc dù, không đưa ra lý do tại sao các phòng thí nghiệm này không giải trình tự gen các mẫu có giá trị ngưỡng chu kỳ cao hơn 30. Tuy nhiên, các nhà nghiên cũng đưa ra một số lập luận về lý do này:
-
- Các nghiên cứu sử dụng ngưỡng chu kỳ khác nhau đã chỉ ra rằng virus lây nhiễm sẽ không được phân lập từ những bệnh nhân có giá trị Ct lớn hơn 24.
- Những người nhiễm virus không có triệu chứng-những người có ngưỡng chu kỳ cao-thường có tải lượng virus thấp hơn những người có triệu chứng và xét nghiệm khuếch đại axit nucleic (PCR) dương tính trong một khoảng thời gian ngắn hơn.
- Đồng thường, nhóm nhiễm không có triệu chứng không phải là nguồn chính lây nhiễm trong cộng đồng.
Các nhà nghiên cứu kết luận: “Trong nghiên cứu của chúng tôi, điều này phù hợp với dữ liệu đã được công bố, những người không có triệu chứng có thể ít nguy cơ lây nhiễm hơn những người có triệu chứng”.
Thiện Đức|
- Theo ET tiếng Anh.