Không phải giãn cách xã hội, một Chiến lược Phòng thủ Sinh học hiệu quả mới giúp Việt Nam vượt qua được đại dịch!

Giúp NTDVN sửa lỗi

Từng được coi là hình mẫu chống Covid-19 trên thế giới, nhưng Việt Nam vẫn đang gặp phải những khó khăn nhất định khi phải đối mặt với làn sóng dịch thứ 4. Diễn biến của đợt dịch này phức tạp hơn, từ cuối tháng 4, với số ca nhiễm mỗi ngày thường xuyên ghi nhận trên 3 con số. COVID-19 đã cho thấy Việt Nam thiếu sự chuẩn bị cho các mối đe dọa sinh học.

Tệ hơn nữa, các biện pháp nghiêm ngặt trước đây từng giúp Việt Nam kiểm soát virus thì nay lại tỏ ra tương đối kém hiệu quả, bằng chứng là số ca lây nhiễm tăng vọt kể từ cuối tháng 4 năm nay.

Điều này đặt ra mối quan ngại lớn đối với Việt Nam, không chỉ về COVID-19 mà còn về khả năng chống lại các mối đe dọa sinh học trên diện rộng. Với suy nghĩ này, Việt Nam nên thiết lập một chiến lược quốc gia về phòng thủ sinh học để giúp đất nước chống lại các mối đe dọa sinh học một cách hiệu quả, trong bối cảnh khả năng phòng thủ sinh học của đất nước còn thiếu thốn như hiện nay.

Theo The Diplomat, Nghị định 81/2019 của chính phủ Việt Nam về ngăn chặn phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt (WMD) đã phân loại các mối đe dọa sinh học trong số 4 mối đe dọa WMD: hóa học, sinh học, phóng xạ và hạt nhân (CBRN).

Năm 2018, Liên minh Châu Âu đã giúp Việt Nam hoàn thiện Kế hoạch Hành động Quốc gia (NAP) về ngăn chặn các mối đe dọa CBRN. Tuy nhiên, cả nghị định và NAP đều chỉ là hướng dẫn chung chung, nếu không muốn nói là mơ hồ, để giải quyết các mối đe dọa CBRN mà không có bất kỳ kế hoạch chuyên sâu nào về cách đối phó với các loại mối đe dọa cụ thể. Hơn nữa, mặc dù có cơ quan chuyên trách đối phó với một số loại mối đe dọa CBRN, như Binh chủng Hóa học của Quân đội nhân dân Việt Nam và Cục An toàn bức xạ và hạt nhân Việt Nam, Việt Nam vẫn chưa có cơ quan nào chịu trách nhiệm chính về việc chống lại các mối đe dọa sinh học.

Việt Nam rất dễ bị tổn thương trước các mối đe dọa sinh học

Theo tác giả Phuong Pham, nghiên cứu sinh tại khoa Khoa học Chính trị, Đại học Duke, ít nhất thì một chiến lược an toàn sinh học quốc gia sẽ thiết lập một tầm nhìn rõ ràng về cách đối phó với các mối đe dọa sinh học - điều mà Việt Nam còn thiếu cho đến nay.

Nhìn lại, Việt Nam đã phản ứng với các mối đe dọa sinh học một cách thụ động, chỉ sau khi đất nước bị ảnh hưởng. Điều này được thể hiện rõ qua phản ứng của Hà Nội đối với hai đợt bùng phát lớn: virus SARS năm 2003 và COVID-19 năm 2020. Trong đại dịch COVID-19 năm 2020, mặc dù Việt Nam đã giải quyết tốt cuộc khủng hoảng và nhận được sự khen ngợi của quốc tế về các biện pháp kiểm dịch và ngăn chặn nghiêm ngặt, nhưng hiện nay đất nước vẫn đang vật lộn để đối phó với làn sóng mới nhất.

Việt Nam đã từng phải hứng chịu rất nhiều các cuộc tấn công sinh học trong quá khứ, cụ thể là trong Chiến tranh Việt Nam. Việc thiếu một chiến lược phòng thủ sinh học cho thấy Việt Nam thiếu tầm nhìn về vấn đề này. Những hành động mà Việt Nam đã thực hiện cho đến nay đối với COVID-19 về cơ bản là mang tính chiến thuật, vì vậy giới quan sát đang lo ngại về khả năng ứng phó với làn sóng mới, trong bối cảnh số ca mắc và tử vong mới tăng cao như hiện nay. Chỉ có một chiến lược với tầm nhìn toàn diện mới giúp Việt Nam thực hiện một cách hiệu quả các biện pháp ứng phó trước các mối đe dọa sinh học.

Ngoài ra, việc có một chiến lược an toàn sinh học quốc gia sẽ giúp tăng cường toàn bộ bộ máy an ninh của Việt Nam. Theo tác giả Alexander Vuving, thuộc Trung tâm Nghiên cứu An ninh Châu Á-Thái Bình Dương Daniel K. Inouye, các mối đe dọa sinh học không được liệt kê trong các ưu tiên an ninh chính của Việt Nam. Tương tự, Sách trắng Quốc phòng mới nhất năm 2019 chưa nêu cách đối phó với các mối đe dọa sinh học, cho thấy Việt Nam thiếu sự chuẩn bị sẵn sàng trên mặt trận này.

Hơn nữa, Nghị định 81/2019 nói trên ngụ ý rằng Việt Nam đang tiếp cận các mối đe dọa sinh học theo cách tương tự như các mối đe dọa CBRN khác, là những vấn đề mang tính chiến lược. Các mối đe dọa và vũ khí sinh học hoạt động và tiêu diệt mục tiêu theo một cách tương đối khác với các mối đe dọa hóa học, phóng xạ và hạt nhân, vì chúng thường khó phát hiện hơn và có khả năng lây lan nhanh hơn qua một môi trường nhất định, là lý do tại sao các mối đe dọa sinh học cần được đặc biệt chú ý và nghiêm túc nghiên cứu cách thức đối phó.

Nhiều người tin rằng virus SARS-CoV-2 (virus Corona Vũ Hán) hội tụ đầy đủ yếu tố cần thiết để cấu thành một thứ vũ khí sinh học. (Wikimedia Commons)
Nhiều người tin rằng virus SARS-CoV-2 (virus Corona Vũ Hán) hội tụ đầy đủ yếu tố cần thiết để cấu thành một thứ vũ khí sinh học. (Ảnh: Wikimedia Commons)

Làm thế nào để xây dựng một chiến lược phòng thủ có hiệu quả?

Tác giả Phuong Pham cho rằng, một thành phần quan trọng khác của chiến lược phòng thủ sinh học quốc gia là năng lực nghiên cứu và phát triển (R&D) mạnh mẽ và ngân sách cần thiết để hiện thực hóa chiến lược này. Mặc dù đã chứng kiến ​​sự tăng trưởng chi tiêu cho R&D trong thập kỷ gần đây, Việt Nam vẫn kém các nước khác trong khu vực như Thái Lan hay Singapore, chỉ chi khoảng 0,5% GDP cho khoản này trong năm 2017.

Thực tế, chi tiêu không đủ cho R&D là một trong những trong số những lý do chính khiến Việt Nam chậm phát triển vaccine COVID-19 của riêng mình. Cho đến nay, việc tiêm chủng của Việt Nam chủ yếu phụ thuộc vào các nguồn bên ngoài, và vaccine “made in Vietnam” vẫn chưa được phân phối. Theo Bộ Y tế, 2 loại vaccine tiềm năng nhất của Việt Nam là Nanocovax và Covivac chỉ có thể được giao sớm nhất vào tháng 9 tới. Nghĩa là, Việt Nam đang tụt hậu so với các nước láng giềng trong việc tiêm chủng cho người dân.

Nếu Việt Nam không đầu tư nhiều hơn vào việc nâng cao năng lực R&D của mình, Việt Nam có thể không thể đối phó với các mối đe dọa tương tự như COVID-19 trong tương lai, cũng như không thể phát triển các “vũ khí” công nghệ cần thiết để chống lại chúng một cách chủ động. Một chiến lược phòng thủ sinh học đòi hỏi một nền tảng R&D vững chắc hơn.

Để có một chiến lược phòng thủ sinh học khả thi, Việt Nam phải có sự phân bổ nhiệm vụ rõ ràng cho các cơ quan ở mọi cấp, các ngành, từ cấp tỉnh đến trung ương và tư nhân đến nhà nước. Để chiến lược hoạt động tốt, cần phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan, đơn vị có trách nhiệm, nghĩa là họ phải được nhận thức tốt về nhiệm vụ của mình. An toàn sinh học của Việt Nam không chỉ là mối đe dọa cho các cá nhân hoặc lĩnh vực cụ thể; nó là một mối đe dọa hiện hữu cho cả nước, cần sự phối hợp chặt chẽ của tất cả các đơn vị chính quyền.

Ngoài ra, Việt Nam phải theo đuổi hợp tác quốc tế trong lĩnh vực an toàn sinh học để tăng cường nguồn lực của mình trong việc giải quyết các vấn đề này. Do năng lực nghiên cứu và phát triển yếu kém, công nghệ sinh học và chăm sóc sức khỏe của Việt Nam không tiên tiến như mong muốn. Một trong những cách tốt nhất để bù đắp sự thiếu hụt này là tham gia vào các hoạt động với các quốc gia khác, đặc biệt là các quốc gia có công nghệ tiên tiến và nhiều kinh nghiệm hơn trong việc giải quyết các mối đe dọa an toàn sinh học.

Tác giả Phương Pham của The Diplomat lưu ý rằng, hầu hết mọi quốc gia trên thế giới đều phải đối mặt với các mối đe dọa về an toàn sinh học dưới hình thức này hay hình thức khác, vì vậy cần phải có những nỗ lực chung để họ vượt qua. Do đó, Việt Nam phải tạo thuận lợi cho các hoạt động, bao gồm nhưng không giới hạn ở việc nâng cao năng lực, thông tin, trao đổi nhân lực và chuyển giao công nghệ. Nếu quốc gia có thể phối hợp tốt với các đối tác quốc tế của mình, quốc gia đó sẽ có khả năng xây dựng chiến lược an toàn sinh học tốt hơn.

Sự bùng phát của COVID-19 và những hậu quả khủng khiếp của nó có thể thay đổi hoàn toàn nhận thức của các quốc gia về an ninh sinh học, thúc đẩy họ cải cách hệ thống phòng thủ sinh học của mình. Tương tự như vậy, Việt Nam nên tăng cường khả năng phòng thủ sinh học, và một trong những bước quan trọng để làm được điều đó là có một chiến lược phòng thủ sinh học chặt chẽ để có thể đáp ứng tốt hơn các thách thức trong tương lai.

Ngọc Minh

Theo THE DIPLOMAT



BÀI CHỌN LỌC

Không phải giãn cách xã hội, một Chiến lược Phòng thủ Sinh học hiệu quả mới giúp Việt Nam vượt qua được đại dịch!