Bài học cách ly xã hội: Lịch sử của sự sống cô độc và các lợi ích

Giúp NTDVN sửa lỗi

Trong thời gian thực hiện lệnh phong tỏa các thành phố, cách ly xã hội để phòng tránh sự lây lan của đại dịch viêm phổi Vũ Hán, mọi người bắt đầu trải nghiệm sự cô độc - hay trải nghiệm sự cô đơn trong một khoảng thời gian. Khá nhiều người bị hụt hẫng và cảm nhận sự cô độc này với sự pha trộn giữa sợ hãi và tôn trọng. 

Trong lịch sử, xu hướng hạn chế giao tiếp xã hội được thực hiện trong các quy định tôn giáo, ví dụ như trong các tu viện, nhà thờ Thiên chúa giáo, nhà chùa ở các nước châu Á. Hầu hết mọi người giờ đã quen với một số hình thức cô độc thông thường - nhưng thực tế lệnh phong tỏa thành phố đang khiến trải nghiệm này trở nên cực đoan hơn.

Cô đơn có thể cho chúng ta một cảm giác về trải nghiệm cuộc sống một mình. Tuy nhiên, sự cô đơn có thể trở thành mối đe dọa nghiêm trọng hơn đối với sức khỏe thể chất và tinh thần nếu chúng ta không biết cách thích nghi với điều kiện đó. Thất bại đó có thể là một trạng thái của tâm trí, mà cá nhân không kiểm soát được hoặc kiểm soát được rất ít.

Lịch sử câu chuyện Cha sa mạc

Ở châu Âu hiện đại, những người rút lui khỏi xã hội để sống cuộc sống cô độc là đã bắt chước tấm gương của những người cha ở sa mạc thế kỷ IV, những người tìm kiếm sự hiệp thông tâm linh ở nơi hoang dã.

Điển hình là St Anthony Đại đế, người nổi tiếng trong tiểu sử của St Athanasius vào khoảng năm 360 sau Công nguyên, đã từ bỏ quyền thừa kế của mình và rút lui vào sự cô lập gần sông Nile, nơi ông sống một cuộc đời dài với chế độ ăn uống ít ỏi và dành cả ngày để cầu nguyện.

Cho dù họ tìm kiếm một sa mạc theo nghĩa đen hay nghĩa bóng, sự cô độc của St Anthony và những người đi theo ông đã lôi cuốn những người tìm kiếm sự tĩnh lặng trong tâm hồn và rời khỏi những cạnh tranh thông thường của xã hội.

Cuộc gặp gỡ của St Anthony và St Paul tại nơi cô độc
Cuộc gặp gỡ của St Anthony và St Paul, cha xứ vùng Osservanza tại nơi cuộc sống cô độc. (Ảnh: Wikimedia Commons)

Như vậy, sự cô độc đã được hình thành trong khuôn khổ của một truyền thống Kitô giáo cụ thể. Những người cha ở sa mạc đã tiến hành giao tiếp với Thiên Chúa trong sự tĩnh lặng, tách mình khỏi sự ồn ào và mục nát của xã hội đô thị. Sau này, trong các tu viện, họ đã thể chế hóa các quy định về việc kết hợp sự tĩnh tâm cá nhân với hình thành thói quen để bảo vệ các tu sĩ khỏi sự sụp đổ tinh thần hoặc lệch lạc tâm linh.

Trong xã hội rộng hơn, thực hành tĩnh tâm được coi là chỉ phù hợp cho những người đàn ông có học thức tìm nơi ẩn náu khỏi những áp lực đồi bại của một nền văn minh đô thị hóa. Cô đơn là một cơ hội, như bác sĩ và nhà văn người Thụy Sĩ Johann Zimmermann, đã gọi là ‘để tự tại và tự do’.

Nhưng theo thời gian, những người yêu thích sự đơn độc đã thay đổi. Những gì đã từng là quy định của tôn giáo hoặc đặc quyền của giới tinh hoa đã trở nên dễ tiếp cận với hầu hết mọi người ở một giai đoạn nào đó trong cuộc đời họ.

Cuộc sống của các tu sĩ, nhà sư

Trong nhà thờ Công giáo, truyền thống ẩn dật trong tu viện vẫn có sự thay đổi định kỳ, đáng chú ý nhất là việc thành lập Dòng Luyện tâm, thường được gọi là Trappists, vào năm 1664 ở Pháp. Bên trong các bức tường của tu viện, nhà chùa, bài giảng Đạo đã được giảm đến mức tối thiểu để dành phần lớn thời gian cho các tu sĩ, nhà sư sám hối, tĩnh tâm, thiền định và cầu nguyện hoặc đọc niệm chú trong thầm lặng. Ngôn ngữ sử dụng các ký hiệu phức tạp đã được thực hành để cho phép các tu sĩ, nhà sư trao đổi hàng ngày mà không cần dùng đến lời nói, ở các tu viện Tây Tạng họ gọi các ký hiệu đó là ‘thủ ấn’.

Cuộc sống cô độc
Cuộc sống cô độc của các tu sĩ dòng Luyện tâm ở Kentucky. (Ảnh: Wikipedia)

Sự lan tỏa của cuộc sống cô độc

Giữa sự ồn ào và ô nhiễm của xã hội đô thị hóa, sự rút lui và cô lập định kỳ trở nên hấp dẫn hơn với nhiều người. Sự cô đơn cung cấp cho chúng ta một khoảng trời tự do, có thể khôi phục năng lượng tinh thần và làm sống lại một viễn cảnh đạo đức bị tha hóa bởi cuộc sống chạy theo dục vọng không kiểm soát.

Với cuộc sống hiện đại ngày nay, chúng ta có đầy đủ các nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm đảm bảo việc sinh hoạt hàng ngày. Các dịch vụ truyền thông đại chúng, bưu chính, hệ thống dịch vụ thương mại điện tử... cũng đều sẽ đáp ứng các nhu cầu về thông tin, cuộc sống tinh thần.

Bên cạnh đó, những người sống đơn độc cũng sẽ có thời gian cho công việc dọn dẹp nhà cửa, làm các việc thủ công khác để có thể có thu nhập. Một số nghề như thủ công mỹ nghệ, may vá, sưu tập tem, đọc sách, chăn nuôi gia súc và chim; và các hoạt động ngoài trời như làm vườn, câu cá, hít thở khí trời.... là những hoạt động phù hợp để mọi người sử dụng thời gian cho riêng mình. Các thành viên trong gia đình dành nhiều thời gian hơn cho cuộc sống gia đình của họ.

Trong cuộc sống cô độc, mọi người sẽ có thêm thời gian cho các sở thích của họ, chẳng hạn như thu thập các bộ sưu tập
Trong cuộc sống cô độc, mọi người sẽ có thêm thời gian cho các sở thích của họ, chẳng hạn như thu thập các bộ sưu tập. (Ảnh: Manfred Heyde / Wikimedia Commons)

Xã hội tự cô lập

Sau năm 1945, sự cô lập bắt đầu lan rộng hơn trong các xã hội. Các hộ gia đình độc thân, hiếm khi xảy ra trong các thế kỷ trước, đã trở nên khả thi và mong muốn của một số người. Trong thời đại hiện nay, gần một phần ba hộ dân cư ở Anh chỉ có một người. Tỷ lệ này cao hơn ở các vùng của Hoa Kỳ và thậm chí nhiều hơn ở Thụy Điển và Nhật Bản.

Người già cô đơn, hiện đang được trang bị lương hưu đầy đủ, giờ đây có thể tận hưởng sự sống độc lập mà không phải sống dựa dẫm vào các con của mình. Những người trung niên có thể thoát khỏi các mối quan hệ không thỏa mãn bằng cách tìm chỗ ở của riêng mình. Xung quanh họ là một tập hợp các nguồn lực đã phát triển, làm cho cuộc sống đơn độc trở thành một phong cách sống thực tế.

Các căn hộ giành cho những người sống cô độc.
Các căn hộ giành cho những người sống cô độc. (Ảnh: Chutternap / Unsplash, FAL)

Mối đe dọa của sự cô lập

Vì vậy, chúng ta nên thoải mái từ lịch sử của cuộc sống cô đơn đã qua. Chắc chắn rằng các xã hội hiện đại được trang bị tốt hơn nhiều so với những xã hội trong quá khứ.

Lịch sử của sự cô đơn cũng khiến chúng ta xem xét lại ranh giới giữa cô đơn và cô độc - bởi vì đó là một phần của vấn đề tự do. Các hộ gia đình độc thân đã mở rộng trong thời gian gần đây vì một loạt các thay đổi về vật chất khiến cho người già và trung niên có thể lựa chọn phong cách sống của riêng họ. Ở phía đối diện, hình thức cực đoan nhất của sự cô độc hiện đại, là sự giam cầm hình sự, nó là sự hủy diệt đối với hầu hết mọi người.

Sự cô đơn.
Sự cô đơn. (Ảnh: Hans Thoma, 1880. Bảo tàng quốc gia tại Warsaw, Wikimedia Commons)

Nhiều hình thức phong tỏa tạm thời hiện đang được áp dụng tại các thành phố chỉ là những khoảnh khắc trước khi các hoạt động xã hội được kết nối lại. Dắt chó đi dạo trong nửa giờ, tham gia thiền định vào giờ nghỉ trưa, làm vườn vào buổi tối hoặc rút khỏi tiếng ồn của gia đình để đọc sách hoặc nhắn tin cho những người bạn đều là những hình thức giải tỏa sự cô đơn quan trọng nhưng cũng chỉ là thoáng qua.

Có một kỳ vọng rằng, dù tốt hay xấu, kinh nghiệm về đại dịch viêm phổi Vũ Hán sẽ được chuẩn hóa. Để tránh sự lây nhiễm của dịch bệnh, hầu hết chúng ta sẽ chịu đựng những hạn chế trong việc di chuyển, và thông qua các biện pháp tài chính gần như thời chiến, chúng ta vẫn được hưởng ít nhất cùng một mức sống cơ bản. Nhưng do hoàn cảnh hoặc tính khí, một số người sẽ dễ dàng thích nghi hơn những người khác.

Con người sinh ra ai cũng phải cô độc, chỉ là cách đối đãi của mỗi người khác nhau mà thôi

Khi đối diện với sự cô độc, Tư Mã Thiên cười nhạo tất cả mà viết nên cuốn Sử Ký – tác phẩm được ca ngợi là “Tuyệt tác của sử gia, một khúc ly tao không lời”.

Khi đối mặt với nỗi cô đơn, Lý An vẫn sáng tác một mình trong sự cô độc. Từ đó mới có bộ tiểu thuyết kinh điển “Ngọa hổ tàng long” ra đời.

Tác giả người Anh của cuốn How to Be Alone (Làm thế nào để sống cô đơn) Sara Maitland đã bị sững sờ bởi khái niệm của sự tĩnh lặng. Bà đã viết:

“Tôi cảm thấy bị thu hút bởi sự tĩnh lặng; bởi những thứ xảy ra đối với tinh thần con người, với bản chất và tính cách khi những cuộc hội thoại đã ngừng, khi bạn nhấn nút OFF, khi ta hòa mình vào khoảng trống khổng lồ đó. Tôi bắt đầu dùng cuộc sống của chính mình như một phòng thí nghiệm để thử nghiệm các ý tưởng và xem nó đưa tôi đến đâu. Và thực sự ngoài sức tưởng tượng của chính mình, tôi phát hiện ra rằng tôi YÊU sự tĩnh lặng. “Anh” rất hợp tôi. Tôi trở nên tham lam và thèm muốn nó hơn. Trong chuyến đi săn sự tĩnh lặng, tôi tìm thấy một thung lũng nọ, và xây một căn nhà ở đó, trên bãi đổ nát của một mái nhà tranh nơi đã từng là nhà của một giám mục già.”

Cô độc và cô đơn không giống nhau. Cô đơn khiến bạn hoảng sợ, nhưng cô độc lại khiến bạn mạnh mẽ. Bởi lẽ sự kiên trì với niềm tin trong nội tâm sẽ mãi mãi là tấm gương chân thực và quý giá nhất của con người.

Ánh Dương

Theo The Conversation

Khoa học Nhân thể


BÀI CHỌN LỌC

Bài học cách ly xã hội: Lịch sử của sự sống cô độc và các lợi ích